Hồi Ký [ Memoir ]



  
 
Hồi Ký Chọn Lọc


9/3/2017
Bài bút ký sau đây của tác giả Tam Giang Hoàng Đình Báu, một niên trưởng HQ/VNCH, vừa được đăng trên website HQ/VNCH tại Đức Quốc:

Thăm Miền Đông Hoa Kỳ - Tam Giang Hoàng Đình Báu


6/6/2017
 
Cát Vàng hân hạnh giới thiệu  cùng đọc giả 2 bài viết sau đây về Hành Trình của Võ Văn Màng, từ một HQ Trung Úy phục vụ trên HQ 3 đến khi trở thành một thuyền trưởng tàu dầu dài 987 feet của hãng Exxon: Một đoạn đường dài nhiều cam go, thử thách, nhưng không thể làm nản lòng một thủy thủ đầy năng lực, quyết tâm, và ý chí phấn đấu.
 
6/6/2017     Nghiệp Hải Hồ - Màng Võ
và               From Vietnam to Vessel Master (One mariner's unique and remarkable journey) - Underway Summer 2003 
 
 
  
 



 
HQ 14 và Những Tháng Cuối Của Cuộc Chiến - Phạm Thành

 1. Lời Tựa
Sau khi chuyển giao Hộ Tống Hạm Vạn Kiếp II (HQ 14) cho Hải Quân Hoa Kỳ tại Subic Bay năm 1975, gia đình chúng tôi nhập trại tỵ nạn tại Guam và sau đó được đưa qua lục địa Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 1975 để nhập trại tỵ nạn Indian Town Gap, Pennsylvania. Đến tháng mười 1975, chúng tôi được xuất trại, về định cư tại thành phố nhỏ Wilkes Barre thuộc tiểu bang Pennsylvania. Sau đó, theo công việc làm, chúng tôi dời lên Long Island, New York; và cuối cùng, chuyển về Annapolis, Maryland. Tôi đã về hưu cách đây ba năm lúc 71 tuổi, hiện sống với vợ tại Annapolis. Hai con gái của chúng tôi đã lập gia đình. Chúng tôi có 2 cháu ngoại.
Từ khi đến Hoa Kỳ, nhiều lần nhớ đến anh em cùng chiến hạm, tôi muốn viết lại vài dòng để làm mối dây liên lạc và cùng ôn lại quá khứ. Nhưng vì bận bịu với gia đình, học hành, và việc làm, nên tôi cứ hẹn rày hẹn mai mãi. Cho đến tuần trước, khi nói chuyện với anh Trần Thanh T, bạn cùng khóa 13 Hải Quân Nha Trang với tôi, T khuyên tôi nên viết lại một bài ngắn gởi đăng trên Đặc San của Đại Hội Hải Quân VNCH Toàn Cầu 2017, để chia sẻ với các chiến hữu Hải Quân VNCH, tôi mới quyết định viết bài này, với mong ước được ôn lại kỷ niệm cũ và liên lạc với anh em thuộc HQ 14, những chiến hữu đã cùng tôi chiến đấu bảo vệ tự do, chia sẻ vui buồn, hiểm nguy, nhọc nhằn gian khổ, nhất là trong những tháng cuối của cuộc chiến. Tôi xin cầu mong cho anh em và gia đình ở ngoại quốc và trong nước luôn được mọi sự bình an.
Vì tôi còn giữ được quyển nhật ký riêng tôi viết trong thời gian ấy, nên ngày tháng và các chi tiết quan trọng trong bài này đều chính xác. Ngoại trừ một số ít chi tiết dựa trên trí nhớ, có thể sai lạc chút ít.
 
 
HQ 14 trong ngày Lễ Quốc Khánh tại Thương Cảng Saigon
2. HQ 14 vào sửa chữa Tiểu Kỳ
Sau chuyến công tác dài trên ba tháng đầy sóng gió, HQ 14 trở về Saigon ngày 13 tháng 2 năm 1975 để vào Tiểu Kỳ, Thủy thủ đoàn ai cũng vui mừng vì được gần nhà hơn một tháng. Riêng tôi, đây cũng là dịp được gần vợ con. Chúng tôi cưới nhau đầu nằm 1973.  Đến nay, con gái đầu lòng của chúng tôi đã tròn một năm. Tôi cần thời gian để làm quen với nó. Hồi nó mới sanh ra, tôi còn làm hạm trưởng HQ 404, sau đó được thuyên chuyển qua HQ 14. Lần về bến vừa qua sau 3 tháng lênh đênh trên biển cả, nó đứng xa xa, vịn thành giường, nhìn tôi như người xa lạ. Tôi cảm thấy thấm thía với cuộc đời Hải Quân và cũng thông cảm hơn với nhân viên của tôi.

Theo thường lệ, khi chiến hạm về Saigon, tôi cho nhân viên làm việc đến 12 giờ trưa thì hai phần ba được đi bờ cho đến sáng hôm sau. Nhưng trong thời gian Tiểu Kỳ, mọi người phải làm việc đến bốn giờ chiều. Ngoài công việc liên lạc Hải Quân Công Xưởng  liên quan đến viêc sửa chữa máy chánh, máy điện, hệ thống phòng tai, điện tử, truyền tin... thủy thủ đoàn còn phải lo lãnh đạn hải pháo tại Thành Tuy Hạ, lãnh tiếp liệu tồn kho, bảo trì chiến hạm hằng ngày, huấn luyện các nhiệm sở Phòng Tai, Tác chiến...
Sau khi sửa chữa Tiểu Kỳ hoàn tất vào ngày 24 tháng 2, Trường Chiến Hạm bắt đầu chương trình Huấn Luyện HQ 14 tại bến, và sau đó, tại Vũng Tàu, cho đến ngày 8 tháng 3.
 
3. Chuyến Công Tác Vùng I Duyên Hải
Sáng ngày 21 tháng 3, chỉ vài ngày sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh Triệt Thoái Quân Đội khỏi Vùng Cao Nguyên, tôi lên BTL/HQ/P3 nhận lệnh công tác đi bảo vệ dàn khoan Ocean Prospector, cách Côn Sơn 188 hải lý về phía đông nam. Nhưng sau đó, trên đường đi, vào lúc 3 giờ 30 chiều, tôi lại nhận được lệnh đổi hướng đi công tác V1ZH. Biển tương đối êm và chúng tôi có một chuyến hải hành thoải mái. Ngồi trên đài chỉ huy, ngắm sao trời và những ngọn đèn le lói từ các ghe đánh cá nhấp nhô trên sóng nước, tôi lại suy nghĩ miên man đến cuộc chiến, không biết mai đây số phận của Miền Nam sẽ đi về đâu. Tôi tự nhủ, dù sao tôi và thủy thủ đoàn vẫn phải giữ vững tinh thần chiến đấu cho đến phút cuối cùng. Chúng tôi vẫn còn hy vọng!

Mãi đến 6 giờ chiều ngày 23, HQ 14 mới đến BCH/V1ZH. Tôi cặp cầu Tiên Sa và lên trình diện TL/V1ZH, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại. Tôi được lệnh khởi hành ngay trong đêm đến khu vực hành quân 1B1, ngoài cửa Thuận An, để yểm trợ Bộ Binh rút quân về nam, qua đường biển. Đô Đốc Thoại có hỏi tôi “ Hạm Phó của anh có đủ khả năng chỉ huy chiến hạm khi có bất trắc gì xảy ra cho anh không?” Tôi mạnh dạn trả lời “Thưa Đô Đốc, tôi đã huấn luyện Ham Phó đầy đủ”. Đô Đốc Thoại nói thêm “Khi ra đến vùng hoạt động, anh chờ khi có lệnh của tôi thì tách ra, thành lập một phân đội riêng, và tiến ra gần vĩ tuyến 17. Phân đội của anh có nhiệm vụ ngăn chặn và tiêu diệt các chiến hạm, chiến đỉnh Bắc Việt khi chúng tiến vào Nam”. Tôi chào Đô Đốc Thoại và về chiến hạm ngay. Biết rằng tình thế đã đến giai đoạn nguy ngập.
 
3.1. HQ14 bị Không Quân VNCH bắn
HQ 14 đến vùng hành quân ngoài cửa Thuận An lúc 2 giờ sáng ngày 24. Đến 9 giờ sáng, tôi bắt đầu cho chiến hạm đi theo đội hình dưới sự điều khiển của HQ 07. HQ 08 cũng đã đến vùng và nhập đội hình. Khoảng trưa, tôi quan sát thấy Bộ Binh hành quân bên trong, chắc cũng để yểm trợ rút quân. Tôi không có tần số để liên lạc với Bộ Binh. Lúc này HQ 709 đã được lịnh rời vùng hành quân, trở về Tiên Sa. Như vậy, trong vùng chỉ còn HQ 07, HQ 8, HQ 609, và HQ 14.
Vào khoảng sau 4 giờ chiều, tôi được lệnh tách ra khỏi đội hình để thành lập phân đội riêng, và tiến ra vĩ tuyến 17. Tôi lên đài chỉ huy để đích thân điều khiển chiến hạm. Nhưng trước khi tôi có thì giờ thành lập phân đội gồm HQ 14 và HQ 609, tôi nghe hai tiếng nổ thật chát chúa như tiếng bom. Nước tung tóe gần trước mũi chiến hạm. Nhìn lên bầu trời trắng đục, đầy mây trắng bao phủ, tôi thấy hai chiếc máy bay A 37 mà tôi biết chắc là của Không Quân VNCH, vì sáng nay có vài máy bay loại này bay lượn bên trong, yểm trợ hành quân của bộ binh. Sau này, khi có dịp gặp lại vài nhân viên của HQ 07 tại Pennsylvania năm 2016,  họ cũng xác nhận với tôi như thế . Hai chiếc máy bay này lợi dụng thời tiết, bay cao trên mây để tránh bị phát giác và bất thần nhào xuống, thả 2 quả bom, nhắm chiến hạm tôi nhưng trật. Chúng bay vút đi. Chiến hạm không hư hại.
Vì tình trạng an ninh trong vùng hành quân này không mấy khẩn trương, tôi chỉ cho 1/3 nhân viên ứng chiến. Tôi cho gọi nhiệm sở tác chiến 100/100 và không ra lịnh bắn trả, vì tôi ước lượng, nếu bắn hạ được một hay cả 2 chiếc A 37 này thì chắc chắn bộ chỉ huy Không Quân từ Đà Nẵng sẽ nghĩ HQ 14 chắc chắn là chiến hạm địch và sẽ gởi ra một phi đội phản lực F5 để bắn chìm HQ 14. Tôi cho chiến hạm chạy zic-zac và ra lịnh thay lá cờ nhỏ trên cột cờ chính bằng lá cờ lớn nhất cho dễ thấy từ xa. Nhưng bất thần, chỉ vài phút sau, một lần nữa, hai chiếc máy bay này vòng trở lại, ném thêm 2 quả bom nữa. Lần này, các quả bom cũng không trúng chiến hạm, chỉ rơi trên biển, bên hữu hạm gần phòng ăn của đoàn viên. Nhưng các mảnh bom bay tung tóe, đâm thủng rất nhiểu lỗ bên hữu hạm. Rủi thay, đúng lúc này, nhân viên đang chạy lên nhiệm sở tác chiến, ngang phòng ăn, vì vậy tổng số nhân viên bị thương lên thật cao. Thêm vào đó, 4 nhân viên ở các nhiệm sở 40 ly, 20 ly, và hầm máy bị tử trận. Sau đây là tổng kết tổn thất của chiến hạm:
Tử trận (5): TSI/VC Bùi Đức Hùng (40 ly), TS/CK Trần Văn Trung (hầm máy), HIS/VC Đặng Hữu Thành (20 ly), TT/TS Lưu Chảy (40 ly), HIS/QK Lê Văn Quí. Theo nhật ký, tôi ghi 4 tử trận, nhưng lại liệt kê tên 5 người. Điều này cần kiểm chứng.
Bị thương nặng (10): TT/TS Nguyễn Hữu Trí, TT/TS Nguyễn Văn Hinh, HS/QK Nguyễn Xuân Quí, HS1/KT Nguyễn Văn Hòa, HS1/GL Cao Ngọc Bé, HS1/PT Hồ Thanh Siêng, TS/VC Nguyễn Văn Hùng, TS/GL Nguyễn Văn Vỉnh, TT1/TX Hồ Văn Sáu.
Bị thương nhẹ (10): ThS/VC Nguyễn Văn Thủ, TS1/VC Phạm Văn Túc, TS1/TP Trần Thiểu, TS/TV Nguyễn Văn Bình, HS1/CK Lê Văn Hùng, HS1/TP Đoàn Văn Ba, TT/TS Nguyễn Hữu Phúc, TT/TS Trần Văn Minh, TT/TS Hoàng Thanh Long, ThS/KT Trần Đình Phương.
Tổn thất vật thể: Cơ khí, Điện khí, Vỏ tàu, Phòng tai, Vũ khí, Vô tuyến, và vật dụng linh tinh. Máy điện hư. Hệ thống tay lái điện bất khiển dụng. Hệ thống vô tuyến bất khiển dụng, không liên lạc được với BTL/HQ/V1ZH, phải dùng máy truyền tin cầm tay để cố gắng liên lạc với các chiến hạm trong vùng hành quân. Y Tá và thủy thủ đoàn đã nỗ lực tối đa để săn sóc và cứu chữa các nhân viên bị thương, sửa chữa máy điện, hệ thống truyền tin… Cuối cùng HQ 07 đã nghe được và đến phụ giúp tải thương, nhưng vì biển động, phải tách ra và chỉ có một số nhân viên tử thương và bị thương được đưa qua HQ 07 để chuyển về Bệnh Viện Duy Tân Đà Nẵng.
Đồng thời, HQ 08 cũng nghe được và làm trung gian báo cáo tình trạng của HQ 14 về BTL/HQ/V1ZH và dòng HQ 14 về Tiên Sa, Đà Nẵng. Dọc đường, rất tiếc, thêm môt nhân viên trút hơi thở cuối cùng. Đến gần sáng hôm sau, khi gần đến Tiên Sa, HQ 14 đã sửa chữa xong một phần hư hỏng và có thể tự vận chuyển được. HQ 08 tháo dây dòng và trở lại vùng hoạt động. (Đoạn trên đã được tu chính sau khi Hạm Trưởng HQ 08, Nguyễn Trường Y, đọc được bài này và chúng tôi có dịp trao đổi tin tức với nhau qua điện thoại) . HQ 14 về cặp cầu sáng sớm ngày 25. Các nhân viên bị thương được chở qua bệnh viện quân đội Duy Tân bên Đà Nẵng để điều trị. CCYTTV/HQ bắt đầu cấp tốc sửa chữa để chiến hạm có thể chạy về Saigon. Tối ngày 26, tôi được lệnh chở gia đình Hài Quân về Saigon. Ngay sau đó, chiến hạm bắt đầu tiếp nhận gia đình quân nhân cho đến sáng hôm sau.

Nghĩ rằng Đà Nẵng sẽ thất thủ trong một ngày rất gần, tôi mượn xe của CCYTTV/HQ, chạy qua bệnh viện Duy Tân xin cho tất cả nhân viên của tôi được xuất viện và cuối cùng, tất cả đều được chuyển về bệnh xá CCYTTV/HQ, ngoại trừ một nhân viên giám lộ bị gãy mất một cánh tay, phải ở lại thêm để điều trị. Tôi rất buồn vì tôi muốn, khi chiến hạm khởi hành, tôi sẽ đem tất cả các nhân viên của tôi về Bệnh Xá HQ Bạch Đằng (Saigon). Đi ngang qua thành phố Đà Nẵng, tôi thấy người đi lố nhố đầy đường. Không biết họ đi đâu, đi tìm đường về Saigon? Hay là Việt Cộng đã trà trộn vào dân? Tuy không có bạo động, tình thế có vẻ hỗn loạn. Tôi biết chắc Đà Nẵng sẽ mất nay mai.

 
Sau này nghĩ lại, tôi vẫn ân hận mãi. Biết đâu, nếu tôi cho bắn hạ hai chiếc máy bay khi chúng trở lại lần thứ nhì thì thiệt hại nhân sự sẽ giảm thiểu đi không? Có thể F5 sẽ không ra? Nhưng tôi lại tự an ủi, nếu F5 ra, bắn hỏa tiển, thì thiệt hại sẽ lớn hơn nhiều, có thể tôi và phần lớn nhân viên đã không còn có mặt trên quả đất này nữa. Dù sao, đây là một biến cố đau lòng nhất trong đời chỉ huy của tôi. Nó sẽ đeo đẳng tôi suốt đời. Xin linh hồn của các nhân viên chiến hạm đã hy sinh vì tổ quốc trong biến cố này hiểu cho tôi, và nếu tôi lầm lỗi, xin được tha thứ. Với các nhân viên bị thương, tôi cũng xin lỗi và mong có dịp gặp lại để cùng nhau tâm sự.

Vào năm 2007, tôi có dịp đọc quyển hồi ký “Can Trường Trong Chiến Bại” của Đô Đốc Thoại. Ông có đề cập đến việc HQ 14 bị bắn, nhưng không thể xác nhận ai đã bắn hoặc ai đã ra lệnh.
 
3.2  Di Tản Gia Đình HQ từ Đà Nẵng về Vũng Tàu

       Sáng ngày 28 tháng 3, một số gia đình Hài Quân đã lên tàu nhưng chưa đầy đủ. Tôi được lệnh đem chiến hạm ra neo trong vũng Tiên Sa, chờ tiếp nhận thêm cho đủ khoảng 600 người. Sau khi thả neo, tôi đi quanh chiến hạm vài vòng để biết tình trạng của các gia đình quá giang, rồi lên đài chỉ huy ngồi quan sát. Dãy núi Tiên Sa sừng sững trước mặt. Trong nhiều năm qua, tôi đã ra vảo hải cảng này nhiều lần, đã thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên thơ mộng, hòa lẫn với mây trời sóng nước, mà tâm hồn thấy thoải mái, dù chỉ trong chốc lát, trước khi con tàu ra khơi, lướt sóng đại dương! Nhưng hôm nay, tôi cảm thấy buồn thấm thía, linh cảm một mất mát lớn sắp xảy ra. Tôi sẽ không bao giờ có dịp đem con tàu trở lại vùng biển này nữa!
 
 
Hải Cảng Tiên Sa

Tôi trở lại thực tế! Một số ghe nhỏ đang chèo đến gần lái của chiến hạm và nhân viên canh gác ra hiệu cho họ ngưng lại, chờ lệnh của tôi. Tôi đi ra sân sau chiến hạm, nhìn những khuôn mặt hốt hoảng của người lớn lẫn trẻ con, tôi không cầm lòng được! Họ chỉ là những người dân, không thuộc gia đình Hải Quân, đang hớt hải tìm đường chạy trốn Cộng Sản. Trên tàu không ai quen biết với họ. Tôi ra chỉ thị cho sĩ quan và nhân viên áp dụng các tiêu lệnh an ninh trước khi cho họ lên tàu.
Gia đình Hải Quân tiếp tục lên tàu. Đến chiều, HQ 14 khởi hành về Saigon. Chiến hạm về đến Vũng Tàu chiều 31, tháng 3. Theo lịnh chuyên chở, tôi cho các gia đình HQ và khách quá giang lên Vũng Tàu, trước khi chiến hạm tiếp tục về Saigon. HQ 14 về đến Bến Bạch Đằng ngày 1 tháng 4 và cặp tai cầu E trong HQCX để tải thương và sửa chữa. Chiếu theo tập hồi ký “Can Trường Trong Chiến Bại” của Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, cũng trong ngày này, Đà Nẵng đã bỏ ngỏ. Đô Đốc Thoại và tất cả lực lượng yểm trợ V1ZH đã rời vùng này, trực chỉ Qui Nhơn dưới sự điều động của BTL/HQ. Sau đó, Phó Đề Đốc Thoại được chỉ định làm Chỉ Huy Trưởng Chiến Thuât (OTC) để yểm trợ Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đang đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Chiến Trường Qui Nhơn kiêm Tổng Trấn Qui Nhơn.
Trong thời gian này, tôi có dịp gần nhà. Con gái tôi vừa được một năm và đã nhận ra tôi. Chiều chiều, tôi bế nó đi quanh chung cư Phạm Thế Hiển. Nó mở mắt lớn, tò mò nhìn khung cảnh chung quanh. Tôi thấy thương nó quá và, trong chốc lát, tạm quên thế sự đang biến chuyển từng giây phút. Sinh hoạt quanh chợ Phạm Thế Hiển vẫn bình thường, nhưng nhìn ánh mắt của phần lớn các bà, các cô bán hàng, tôi thấy những nét ưu tư thật khó tả. Tôi nghe đồn, nhiều gia đình đang tìm đường chạy.
Có một đêm, sau bữa ăn tối, hai vợ chồng tôi ngồi, bàn bạc với nhau về tình hình cuộc chiến. Tôi cũng không biết quyết định của các “ông lớn” trong Hải Quân như thế nào. Vợ tôi hỏi “Em và con có thể lên tàu đi công tác với anh không?” Tôi ngần ngừ một lúc rồi lấy hết can đảm đáp “Chắc không được đâu em. Tàu anh là tàu chiến. Vả lại, nếu anh cho em và con đi thì anh phải cho gia đình tất cả thủy thủ đoàn đi. Điều này chắc không được”. Vợ tôi buồn buồn nói “Thôi, anh cứ yên lòng mà đi. Ở lại nhà, em sẽ lo săn sóc con. May ra Cậu (bố của vợ tôi) có thể tìm phương tiện máy bay cho gia đình đi, vì Cậu làm cho cơ quan Mỹ ở Saigon. Nếu khi mất nước, anh thấy an toàn để về đón gia đình, thì anh về. Nếu không, anh cứ đi ra ngoại quốc và tìm cách liên lạc với em sau”. Tôi thấy cảm động quá, nghẹn ngào thương cho sự hy sinh và phục cho lòng can đảm của vợ tôi. Tôi muốn ôm vợ tôi vào lòng để an ủi. Nhưng biết nói gì đây trong hoàn cảnh bất định này? Tôi chỉ khẽ gật đầu, ngồi yên lặng, cố nén hai dòng lệ muốn trào ra. , rồi quay qua nhìn con gái chúng tôi đang ngủ say. Nhiều lần trước, khi nhìn nó ngủ, tôi thường mơ đến cảnh thanh bình sau chiến tranh, và Miền Nam chiến thắng. Vợ chồng tôi sẽ nắm tay nó, dẫn đi Sở Thú, đi về Huế, về Hải Phòng thăm quê nội ngoại… Nhưng bây giờ, giấc mơ đó hầu như đã tiêu tan, chỉ còn cầu mong có một phép mầu xảy ra để quân nhân anh dũng VNCH đâp tan được âm mưu xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV). Nếu không, xin cho tất cả chúng tôi được an toàn và có dịp đoàn tụ ở một nơi nào đó, trên một xứ tự do. Nơi ấy có thanh bình, công lý, và dân chủ. 

4. Công Tác Vùng III Duyên Hải
Trong lúc HQCX tiến hành việc sửa chữa vỏ tàu, và các hệ thống đã hư hỏng trong biến cố vừa qua tại V1ZH, nhân viên chiến hạm lo bảo trì súng phòng không, hệ thống máy chánh, hải pháo, radar, truyền tin, phòng tai, vận chuyển… và xin tiếp tế nhiên liệu, nước ngọt… để chuẩn bị cho chuyến công tác sắp đến. Tôi chỉ định Thiếu Úy T lo hồ sơ tử tuất cho các nhân viên đã tử trận, lo chuyển giao di sản, và đón tiếp thân nhân. Tôi cho gởi TT/TS Nguyễn Văn Hùng nhập TYV Cộng Hòa.   Ngày 2 tháng 4, tôi chỉ định Hạm Phó, SQ/CTCT, và Y Tá lên Bệnh viện HQ Bạch Đằng đón bà Trần Nguơn Phiêu đến thăm thương binh. Tôi định sẽ đến nếu không bận. Nếu bận, tôi sẽ đến thăm anh em ngày hôm sau. Tôi cho thao dợt Nhiệm Sở Phòng Không mỗi ngày lúc 3 giờ chiều.
Ngày 8 tháng 4, lúc 8:30 sáng, một chiếc F5 của Không Quân bắn Dinh Độc Lập. Hải Quân chỉ định các chiến hạm sau ứng chiến phòng không: HQ 5, HQ 17, HQ 5, HQ 229, HQ 329, HQ 606, và HQ 231.
Lúc này Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) đã tràn vào Bình Định, Qui Nhơn, và Phú Yên. Bộ Binh từ Tuyên Đức rút về Đà Lạt, sau đó Đà Lạt mất. Quân đội ta vẫn còn trấn giữ các tỉnh từ Nha Trang trở xuống. Tôi không nghe đồn có một mật ước nào cả giữa Mỹ và Trung Cộng. Trong lúc này, Miền Nam vẫn giữ lập trường “Không cắt đất, không chấp nhận liên hiệp”. Hải Quân vẫn còn giữ vững V3ZH, V4ZH, và V 4 Sông Ngòi, tuy nhiên tất cả đều đang trong tình trạng báo động.
Hiện tại, thủy thủ đoàn HQ 14 gồm có 17 sĩ quan kể cả các sĩ quan tạp dịch, 37 hạ sĩ quan, và 54 đoàn viên hiện diện. Ngoài ra còn 12 nhân viên đi phép và 7 nhân viên còn nằm bệnh viện. Thêm vào đó, tôi còn tiếp nhận 70 nhân viên tạm trú thuộc HQ 2, 3, 07, 11, 12, 16, 800, và 228.
Sáng ngày 8 tháng 4, một F5 thuộc Không Quân VNCH bắn Dinh Độc Lập. Hải Quân được lệnh ứng chiến phòng không. Tôi chỉ thị Thiếu Úy T và toán ẩm thực đi chợ thêm để dự trữ cho chuyến công tác dài hạn sắp đến.
Sáng ngày 12 tháng 4 lúc 9 giờ sáng, HQ 14 khởi hành công tác V3ZH. Chiến hạm ra khỏi sông Lòng Tảo, đến Vũng Tàu và nhập V3ZH lúc 1 giờ trưa. Sau khi chuyển giao tất cả nhân viên tạm trú cho HQ 802, tôi cho chiến hạm trực chỉ phía bắc Vũng tàu, để thay thế HQ 618. Đến ngày 16, lúc 10 giờ 45 sáng, tôi khởi hành đi Phan Thiết. Nhưng đến 12 giờ 30 sáng lại được lệnh đổi đường đi Phan Rang. Lúc này Phan Rang đã bị Cộng Sản tràn ngập. Chuẩn Tướng Nhật và TKT/TK Khánh Hòa đã lên được HQ 3. Không có tin tức gì về Tướng Nghi. Ban đêm HQ 14 tuần tiểu từ Hòn Lao đến Lagran. Tôi cho báo cáo về Trung Tâm Kiểm Soát Cam Ranh tình trạng kỹ thuật và đạn dược trên HQ 14 như sau: máy điện số 2, bơm cứu hỏa số 2, và motor số 2 của Frigo bất khiển dụng. Chiến hạm hiện tồn trử 110 ngàn lít dầu, trên 5 ngàn lít nhớt, 20 tấn nước ngọt, 441 viên đạn đại bác 76 ly, trên 3 ngàn đạn 40 ly, trên 13 ngàn đạn 20 ly, một số đạn đại liên và  chiếu sáng. Với khả năng này, và nếu máy điện số 1 (máy điện duy nhất còn khiển dụng) vẫn chạy tốt thì chiến hạm còn khả năng hoạt động vài tháng nữa, không cần tiếp tế. Chỉ còn vấn đề thực phẩm, chỉ còn khoảng 2 tuần, ngoại trừ gạo còn rất nhiều. Tôi cho cắt bớt khẩu phần thịt và rau vì không biết bao giờ mới được ghé bến tiếp tế, và không tiên liệu được chiến tranh còn kéo dài bao lâu nữa. Đồng thời tôi giới hạn việc dùng nước ngot, vì máy chế tạo nước ngọt đã hư từ lâu. Tiêu lệnh này được áp dụng từ Hạm Trưởng đến đoàn viên. Sau này nghĩ lại, tôi thấy cảm phục nhân viên của tôi nhiều về tinh thần kỹ luật, can đảm, và sức chịu đựng lớn lao của họ.
Trưa ngày 18 tháng 4, chiến hạm đến gần mủi Cà Ná thuộc tỉnh Ninh Thuận. Nơi đây Quốc Lộ 1 có môt đoạn ngắn  chạy ra tận biển. Sau này, chiếu theo bài tường thuật “Măt Trận Phan Rang” (http://nhaydu.com/index_83hg_files/left_files/MatTranPhanRang.htm), tôi biết được bên trong đất liền, tuần trước, hai Lữ Đoàn Nhảy Dù và Quân Đoàn 3 còn hiên ngang trấn thủ Địa Đầu Giới Tuyến này mặc dầu đã bị thiệt hại nặng, nay Phan Rang đã bị Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) tràn ngập. Một người bạn thân của gia đình bên vợ tôi, Đại Úy Đinh Quốc Tuấn thuộc Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù đã anh dũng chiến đấu và đã tử trận ngày 15.  Sau đó, Trung Tướng Nghi cũng đã bị địch bắt.  


Vị Trí HQ 14 tại Vùng Biển Cà Ná, Phan Rang

Tôi cho chiến ham tiến vào cách bờ khoảng  9 ngàn yards để quan sát. Nhìn qua ống nhòm, trên Quốc Lộ 1, tôi thấy xe tăng, xe chuyển vận, đại pháo của CSBV đang kéo nhau đi sờ sờ trên quốc lô, hướng về nam. Tôi nóng máu. Suốt thời gian làm Duyên Đoàn Phó ZD 13 ở Cửa Tư Hiền, nhiều lần tôi đã dẫn quân đi phục kích và chạm tráng với CSBV khi chúng chuyển quân từ Phú Thứ, qua Quốc Lộ 1 để vào dảy Trường Sơn. Anh em chúng tôi đã hạ chúng sát ván. Nay thấy tận mắt đoàn xe của chúng đang đi lừ lừ giữa thanh thiên bạch nhật, tôi không chịu nổi. Tôi quyết dùng hết hỏa lực để làm chậm bước tiến của chúng, để quân ta có thêm thời giờ rút lui. Tôi vận chuyển chiến hạm vào gần bờ thêm chút nữa và đích thân hướng dẫn hải pháo 76 ly bắn vòng cầu vào toán quân xa này. Viên đầu tiên rơi gần quốc lộ. Qua ống nhòm, tôi thấy chúng dừng lại. Tôi điều chỉnh và cho bắn tiếp, nhưng vô hiệu. Sóng biển chỉ lắc một tí là đạn rơi sai đi vài chục yards! Bắn một hồi, thấy bụi mù bay tung tóe, nhưng không biết có mảnh đạn nào trúng chúng nó không, tôi đành cho ngưng để tiết kiệm đạn, đồng thời vận chuyển chiến hạm ra xa bờ để tránh đạn địch, có thể bắn ra từ đại pháo của chúng.
Một lúc sau, qua máy truyền thanh trên đài chỉ huy, tôi nghe giọng nói của Hạm Trưởng HQ 11 gọi tiếp viện, bắn yểm trợ cho HQ 07. Trước đó, HQ 07 đã tiến vào bờ gần Cà Ná để bắn triệt hạ một cây cầu nhằm trì hoản địch. Cầu không sập, trái lại CSBV bắn ra tới tấp, và HQ 07 cần HQ 14 yểm trợ hải pháo để rút ra xa bờ. Lập tức, tôi gọi nhiệm sở ứng chiến 100/100 đồng thời cho HQ 14 tiến hết tốc lực về phía cầu. Càng lúc càng gần bờ. Tôi leo lên đài quan sát nhỏ bên trên đài chỉ huy, tay chỉ hướng bắn cho hải phào 40 ly, miệng la hét để kích thích nhân viên. Đạn 40 ly nổ rang dọc theo bờ biển. Một lúc sau, HQ 07 rút ra đến chỗ an toàn, tôi cho bắn cầm chừng và rút tàu về vị trí cũ. Tôi gởi công điện thỉnh cầu thượng cấp kêu gọi Không Quân ra bắn đoàn quân xa của CSBV nhưng được trả lời “Không Quân đang lo yểm trợ trấn thủ Saigon”.
(đoạn văn trên đã được tu chỉnh theo đề nghị của Châu Ngọc Lợi, một nhân viên trên HQ 11: thay vì HQ 11 bị CSBV bắn, sửa lại HQ 07 bi CSBV bắn)
Lúc này, HQ 17 đã đến vùng và đảm nhận OTC. Đô Đốc Minh, trên HQ 3, đến điều động tại chỗ. Hồi trưa này, nhìn lên trên rặng núi bên trong, tôi thấy hàng trăm ánh sáng nhỏ nhấp nhánh, tôi biết quân ta đã tan rã, có lẽ đang tìm đường rút lên núi. Một số  trong đó thuộc Lữ Đoàn 2 Biệt Động Quân. Họ đang ra hiệu. Tôi thấy thương cho họ quá. Cũng như tôi, họ đang căm hờn nhìn địch tiến về Saigon. Nhưng khác với tôi, họ là những anh hùng, quả cảm chiến đấu, nhưng không còn đường triệt thoái. Quân CSBV đã tràn ngập và đang lùng kiếm khắp nơi. Họ không thể rút ra biển.Vài cấp chỉ huy của họ đã lên được HQ 3 và có mật hiệu để liên lạc với họ, nếu họ rút ra được gần bờ biển Cà Ná.
Một lúc sau, tôi được lệnh cho tàu vào bờ thi hành công tác rút quân của Bộ Binh, trong lúc đoàn quân xa, đại pháo của địch còn di chuyển liên tục trên quốc lộ. Vì HQ 14 thuôc loại tuần dương, và tôi không có một tin tức tình báo nào trên bờ, đem chiến hạm vào đó không khác gì làm mục tiêu cho chúng bắn, nên tôi đề nghị môt giải pháp và được chấp thuận: Tôi sẽ dùng ghe Duyên Đoàn và ghe dân đánh cá để ban đêm tiến vào bờ chuyển quân.
Nhìn ra ngoài khơi, tôi thấy một đoàn ghe của Duyên Đoàn đang tiến về nam. Tôi xin thượng cấp cho tôi xử dụng 2 ghe Yabuta, và chỉ định vài nhân viên lên hai ghe này để chỉ huy việc đón quân Bộ Binh trên bờ. Tôi dặn dò hai thuyền trưởng Yabuta  và các nhân viên của tôi các việc phải làm, cho họ mật hiệu đánh đi và mật hiệu nhận khi đến gần bờ. Các mật hiệu này do cấp chỉ huy Bộ Binh trên HQ 3 cung cấp. Tôi bảo họ nhớ đem theo vài khẩu súng, vài cây đèn pin để ra hiệu, hai máy truyền tin, và cố gắng gom góp một ít ghe đánh cá để cùng đi vào bờ (tôi định sẽ trả công cho các ghe đánh cá này sau khi công tác hoàn tất), chờ đến lúc trời tối thì khởi hành đi. Tôi còn dặn họ, tắt máy truyền tin để khỏi bị địch phát giác, chỉ dùng trong trường hợp khẩn cấp.
Trời vừa sập tối, tôi ngồi trên đài chỉ huy chiến hạm, theo dõi đoàn ghe của các cảm tử quân đang tiến vào bờ cho đến khi không còn thấy họ nữa. Trên Quốc Lộ 1, đoàn quân xa của CSBV vẫn đều đều tiến về nam. Lòng tôi nôn nóng, cầu nguyện cho họ được bình an trở về. Nếu tôi được toàn quyền quyết định, chưa chắc tôi đã gởi họ đi, vì sự thành công của công tác này quá mong manh. Nếu thất bại, bị địch bắn tiêu diệt,  thì hậu quả thật vô lường.
Suốt đêm tôi thao thức chờ tin đoàn ghe vớt Bộ Binh trở về, nhưng chờ mãi vẫn không thấy tăm hơi! Tôi lo ngại vô cùng. Mãi đến rạng đông vẫn không thấy bóng các ghe này. Tôi vận chuyển chiến hạm vào gần bờ hơn, dùng ống nhòm để quan sát. Bỗng nhiên, tôi nghe một tiếng nổ lớn, một cột nước trắng tóe lên cách tàu độ một ngàn yards. Biết đại pháo của địch vừa bắn ra, tôi cho chiến hạm chạy ra xa. Đúng lúc này, qua ống nhòm, tôi thấy xa xa đoàn ghe bốc quân đang từ từ tiến ra. Tôi mừng vô kể. Họ đã xa bờ! Nhưng chỉ có 2 chiếc Yabuta. Còn các ghe đánh cá ở đâu, mọi người có an toàn hay không, tôi tự hỏi. Khi 2 ghe này cặp bên tả hạm, nhân viên báo cho tôi biết các ghe đánh cá sợ quá, đã biến đi mất trong đêm, trước khi vào đến bờ. Họ cho ghe đi dọc theo bờ suốt đêm mà chỉ liên lạc được và vớt khoãng 20 người. Tôi khen ngợi anh em đã can đảm thi hành trách vụ. Tôi tiếp nhận quân nhân Bộ Binh và cho họ tạm trú trên chiến hạm, đồng thời cám ơn và chào từ giả các chiến hữu trên Yabuta trước khi họ trở về đơn vị. Sau này, cách đây độ 5 năm, tôi có gặp lại Đại Úy T mới được biết anh thuộc Duyên Đoàn này và có hiện diện lúc đó tại Mũi Né. Không ngờ chúng tôi đã quen nhau nhiều năm tại Mỹ mà không biết đã có dịp cộng tác với nhau một khoảnh khắc ngắn trong thời gian cuối của cuộc chiến.
Ngày 19 tháng 4, CSBV tràn ngâp Phan Thiết. Tôi được lệnh V3ZH gọi chiến hạm về Vũng tàu để nhận tiếp tế và đị công tác quần đảo Trường Sa. Trưa ngày 20, HQ 14 về đến gần Hòn Bà, Vũng Tàu. Ngày 21, tôi thả neo ngoài Vũng Tàu, nhận thêm trên 3 ngàn viên đạn 40 ly và 330 viên 76 ly do HQ 08 tiếp tế, và cho ban ẩm thực đi chợ, đồng thời cho các quân nhân và dân sự tạm trú lên bờ. Qua các đài truyền thanh, tôi được biết Tổng Thống Thiệu đã giao quyền lãnh đạo quốc gia cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. (Sửa lại Phó Tổng Thống thay vì Thủ Tướng, theo tin tức của anh P N Ấn, cùng Khóa 13 SQHQ/NT với tôi) Nhật lịnh của Đại Tướng TMT/QLVNCH: “Bảo vệ bờ cõi, đánh bại quân xâm lăng, bảo vệ Vùng 3 và Vùng 4”. Tuần trước, tôi mong có một hiệp ước nào đó giữa Mỹ và Trung Cộng để bắt buộc CSBV ngưng lại tại Phan Thiết. Nhưng sau khi Phan Thiết mất. Tôi không còn hy vọng nữa.
 
5. Công Tác Quần Dảo Trường Sa
Lúc 9 giờ 30 tối ngày 21, HQ 14 khởi hành đi Trường Sa theo chỉ thị của BTL/HQ, thừa lệnh Bộ Tổng Tham Mưu. Cùng đi, có HQ 17 làm OTC. Vì HQ 17 khởi hành trước và chạy nhanh hơn nên sẽ đến Trường Sa trước. Chúng tôi được tiêu lệnh từ Bộ TTM: “Không được khai hỏa trước khi đối đầu với đich tại Trường Sa”.  Địch là ai, không biết rõ. Tôi chỉ được biết trong các ngày vừa qua, có tin một số máy bay lạ xuất hiện trên đảo. Nhiệm vụ của HQ 14 và HQ 17 là bảo vệ sinh mạng của lực lượng Địa Phương Quân đồn trú trên quần đảo này.
HQ 14 đến quần đảo Trường sa lúc 4 giờ chiều ngày 23 tháng 4. Quần đảo Trường Sa  cách Vũng Tàu 305 hải lý về phía Đông. Các đảo này là những cồn cát rất thấp, bao quanh bởi nhiều đá ngầm và san hô. Việc vận chuyển quanh quần đảo này tương  đòi khó khăn, nhất là ban đêm tối, dù chiến hạm có radar. Cần nhất là máy định vị trí LORAN, nhưng máy này đặt trên HQ 14 đã hư từ lâu, không đươc sửa chữa.
HQ 17 và HQ 14 chia nhau đi tuần tiểu trên quần đảo này. HQ 17 quan sát thấy một ngọn cờ đỏ trên đảo và ra lịnh  HQ 14 bắn triệt hạ. Cứ mỗi lần đạn 76 ly nổ, cả ngàn con hải âu trắng lại bay lên ngập trời, rồi đáp xuống ngay! Ngày đầu tình hình tương đối yên lặng. Đến quá nửa đêm ngày 25, có hai tàu lạ xuất hiện ở đảo Nam Yết, một ở hướng đông và một ở hướng tây. HQ 17 và HQ 14 gọi nhiệm sở tác chiến, rượt theo hai tàu này. Chúng bỏ chạy mất dạng. Đến 7 giờ sáng, 2 echo xuất hiện trên radar, cách HQ 17 gần 4 ngàn yards, nhưng chúng đi xa dần. HQ 17 xin chỉ thị BTL/HQ Saigon và được đáp: “Phải báo cáo trước khi hành động”. Tôi mong được chỉ thị “Tùy nghi hành động” thì dễ cho chúng tôi hơn!
Ngày 28, HQ 14, HQ 17, và Địa Phương Quân được lệnh rút khỏi Trường Sa, về Vũng Tàu. Tôi khởi hành trước. HQ 17 ở lại để tiếp nhận Địa Phương quân cho xong trong ngày và  trực chỉ Vũng Tàu. Vào lúc 5 giờ chiều, tôi nghe lễ bàn giao chức Tổng Thống giữa Cụ Trần Văn Hương và Đại Tướng Dương Văn Minh đã diễn ra tại Dinh Độc Lập.
Trên đường về gần đến Vũng Tảu, tôi thấy “rồng hút nước” (những cột nước cuốn lên trời do sức xoáy cực mạnh của gió). Suốt 8 năm trên biển, đây là lần đầu tiên tôi thấy hiện tượng này. Người xưa tin rằng đây là một điềm xấu! Xa xa tôi thấy vài chiến hạm Mỹ. HQ 14 về đến Vũng tàu trưa ngày 29 tháng 4. Quang cảnh ngoài khơi Vũng tàu lúc đó thật tấp nập, nào chiến hạm Mỹ, nào thương thuyền ngoại quốc đến tiếp nhận dân sự do lời yêu cầu của chánh phủ Hoa Kỳ, nào ghe chở dân đến thương thuyền, nào trực thăng Mỹ bốc quân Mỹ và thường dân di tản  từ Tòa Đại Sứ Mỹ tại Saigon, lên chiến hạm. Tôi nghĩ đến gia đình vợ con, không biết tất cả bây giờ ở đâu, có an toàn không. Chắc nhân viên của tôi cũng cùng tâm trạng. Nhưng không ai nói với ai điều gì. CSBV đã tiến đến gần Saigon và đang pháo kích Tân Sơn Nhất. Tôi cố thẩm định tình thế xem có nên liều đem chiến hạm về Saigon hay không, tuy nhiên tôi không có tin tức gì chính xác. Ngay cả bên trong Vũng Tàu, tôi cũng không biết rõ.
Trong lúc còn phân vân, tôi được lịnh của V3ZH cho tất cả chiến hạm dưới sự điều động của vùng này được tan hàng và các Hạm Trưởng được toàn quyền quyết định, có nghĩa BTL/HQ không còn ra lịnh nữa.
Nghe vậy, tôi lặng người, nghĩ đến mất nước. Một biến cố đau lòng tôi tiên đoán hơn cả tháng qua, nay đã đến! Nhưng tôi kềm chế được tình cảm của mình ngay. Bình tỉnh, tôi quyết định đưa HQ 14 ra ngoại quốc. Tôi nghĩ đi Philippines rất gần, nhưng không chắc được tiếp nhận. Vì vậy tôi cho nhân viên Giám Lộ chuẩn bị các hải đồ từ Vũng Tàu đến đảo Guam để tôi vẽ đường đi, vì qua tin trên các đài truyền thanh,  tôi biết tại đó chánh phủ Hoa Kỳ đang tiếp nhận quân nhân và thường dân VNCH tị nạn Cộng Sản
Tức tốc, tôi triệu tập một buổi họp ngắn, gồm có các Sĩ Quan, Quản Nội Trưởng, một số Hạ Sĩ Quan, và một số nhỏ đoàn viên. Tôi cho họ biết ý định của tôi và phân công cho mọi người trong việc giữ gìn an ninh cho chiến hạm và thủy thủ đoàn. Đại khái, mỗi người giữ một cây súng cá nhân, tất cả súng cá nhân còn lại và lựu đạn phải giữ trong kho và khóa lại cẩn thận, quản thủ chìa khóa kho sung, bảo vệ các súng trên bong tàu, phản ứng cần thiết và cấp thời khi một nhân viên có hành động gây hấn hoặc nội loan.
Thật ra, qua hơn nửa năm trường cùng sống chết với anh em, tôi đã biết rõ tinh thần kỷ luật cao độ và tình cảm của anh em đối với tôi. Tôi không tin có môt sự việc đáng tiếc nào sẽ xảy ra. Tuy nhiên, theo tôi nghĩ, đây là môt biện pháp mà bất cứ cấp chỉ huy cẩn trọng và có trách nhiệm nào, cũng cần áp dụng trong trong trường hợp đặc biệt này.
Tôi cho tập họp anh em để nói chuyện. Khi tôi đến đứng trước hàng quân, anh em nghiêm chỉnh chào tôi như thường lệ. Nhưng thoáng nhìn ánh mắt của họ, tôi thấy hầu hết đều đượm một nét buồn sâu xa, hay hơn nữa một thất vọng. Chắc họ đã biết những gì đã xảy đến. Ngừng một chút, tôi nhẹ nhàng báo tin cho họ. Tôi nói “Chúng ta đã cùng nhau chiến đấu một thời gian dài, hy vọng sẽ chiến thắng. Nhưng hôm nay, không may, chúng ta đã bại trận. CSBV đã tiến vào Saigon. Tôi quyết định đem chiến hạm ra ngoại quốc, đến môt nước tự do.  Anh nào muốn theo tôi, đứng ra bên này. Anh nào muốn trở về với gia đình, đứng ra bên kia”. Sau một hồi lưỡng lự, anh em đứng ra hai bên. Tôi cho Hạm Phó và Quản Nội Trưởng ghi tên các anh em muốn trở về. Số người trở về tôi không ghi trong nhật ký, chỉ nhớ thoang thoáng trên 30 người.
Trời đã về chiều, tôi bắt đầu tìm phương tiện cho anh em vào bờ để về nhà. Hồi trưa nay tôi thấy hằng trăm chiếc ghe nhỏ đưa dân sự từ Vũng Tàu ra tàu buôn ngoại quốc. Tôi định nhờ họ chở anh em vào bờ và trả bằng dầu. Nhưng bây giờ các ghe này biến đi đâu mất. Tôi cho tàu chạy vòng vòng để tìm kiếm. Khi trời sụp tối tôi cho rà trên radar xem có thấy gì không, nhưng vô vọng. Tôi muốn khởi hành đi Guam ngay để ra đến hải phận quốc tế, và càng xa càng tốt, sợ máy bay CSBV có thể rượt theo. Chỉ cẩn thận thôi, vì tôi ước đoán chiến đấu cơ Mig của chúng chưa đến Saigon. HQ 17 đã khởi hành đi từ lâu. Nhưng tôi đã hứa với nhân viên là cho họ vào bờ, bây giờ làm sao đây?
Trong lúc đang tấn thối lưỡng nan, tôi được công điện mật của Đô Đốc Minh gọi tập trung tại Côn Sơn để cùng đi. Tuy không biết đi đâu, nhưng vì tin Đô Đốc Minh nên tôi cho trực chỉ Côn Sơn. Trong lúc này Cộng Sản nằm vùng trong BTL/HQ liên tiếp gọi máy dụ dỗ các hạm trưỡng đưa tàu về Saigon.
6. Chuyến Di Tản Cuối Cùng: Vũng Tàu - Côn Sơn - Subic Bay, Philippines
Sáng hôm sau, ngày 30, trên đường đi Côn Sơn, tôi gặp vài chiếc LCVP chở toán sửa chữa lưu động chạy tìm đường đi. Tôi cho vớt tất cả. Trong lúc họ lên tàu, một nhân viên giám lộ từ LCVP leo lên, đến chào tôi. Tôi nhận ra ngay, đó là nhân viên của tôi đã bị gảy mất một tay trong lúc Không Quân bắn HQ 14 ngoài cửa Thuận An. Lúc đó anh đang đứng cạnh tôi trên đài chỉ huy. Anh nằm điều trị tại bệnh viên Duy Tân, và khi chiến hạm rút khỏi Đà Nẵng tôi không can thiệp cho anh ra được vì vết thương của anh vẫn còn đang rỉ máu. Anh cho biết, khi CSBV tràn vào Đà Nẵng, anh đã thoát ra được và theo một nhóm nhỏ Biệt Kích tìm về Saigon bằng đường biển. Mọi người đều mừng cho anh và nhân viên y tá săn sóc cho anh tận tình. Vài ngày sau, khi gặp chiến hạm Mỹ, tôi xin cho anh được chuyển qua điều trị. Từ đó, tôi không được tin tức gì về anh nữa. Trên đường đến Côn Sơn, tôi vớt thêm nhiều dân sự và gia đình quân nhân, tổng cộng trên 100 người.
Vào buổi chiều trên đường đến Côn Sơn, khi đang ngồi trên đài chỉ huy, tôi được HQ 3 gọi máy cho biết có gia đình vợ tôi trên chiến hạm. Tôi vừa mừng, vừa ngỡ ngàng, tại sao vợ tôi lại lên được HQ 3, hay là gia đình ai không. Từ lúc khởi hành đi công tác V3ZH đến nay, chúng tôi không có tin tức gì của nhau cả. Tuy nhiên tôi vẫn hy vọng là đúng. Tôi yêu cầu được nói chuyên trực tiếp với vợ tôi trên máy. Nhưng bị từ chối, bảo tôi phải chờ vì máy quá bận rộn. Mãi đến tối HQ 3 mới gọi lại cho tôi nói chuyện với vợ tôi. Nhưng vợ tôi chẵng nói được câu nào. Sau này hỏi lại mới biết vợ tôi không biết phải bấm máy khi nói. Thay vì, tôi nghe dọng nói của ông cậu ruột nhà tôi, ông Trần Van L. Ông cho tôi biết vợ con tôi và gia đình bên vợ, tổng cộng 19 người đang có mặt trên tàu. Tôi mừng quá, không kịp hỏi tại sao, chỉ hứa sẽ đón qua tàu tôi khi được phép. Nhưng cái mừng của tôi không trọn vẹn. Tôi thấy buồn cho nhân viên của tôi. Từ Hạm Phó trở xuống, không ai có thân nhân đi được cả. Sau này, khi gia đình vợ tôi được chuyển qua HQ 14, tôi được nghe kể lại chi tiết viêc chạy từ nhà ở bên Chí Hòa đến khi lên được HQ 3. Đoạn đường tuy không xa, nhưng thật hồi hôp và bất định. Mấy ngày trước đó, gia đình vợ tôi từ chung cư Phạm Thế Hiển chạy qua Chí Hòa cho gần đường lên phi trường Tân Sơn Nhất. Nhưng không vào phi trường được vì Cộng Sản pháo kích. Đến chiều 29, trong khi CSBV pháo kích, đạn nổ nghe rất gần, và cả nhà ngồi chung dưới đất cầu nguyện, ông anh ruột của nhà tôi, Trung Úy L, và ông cậu ruột, Thiếu Tá Trần Quốc B thuộc bộ TTM đã về hưu, dùng xe Honda 2 bánh chạy đi tìm đường. Ra đến đầu ngõ, gặp một người bạn. Cô này cho biết trưc thăng Mỹ đang bốc người ở bến Bạch Đằng. Hai người chạy ra bến Bạch Đằng xem tình hình. Khi đến nơi, họ không thấy trực thăng đâu, chỉ thấy những vòng kẻm gai giăng ngang cổng vào BTL. Nhiều quân nhân HQ cầm súng ở thế tác chiến đứng gác. Thỉnh thoảng, có vài quân nhân HQ đưa gia đình vào. Hai người bàn bạc “chắc HQ đang di tản”, hãy về đưa gia đình ra đây rồi tính sau. may ra vợ tôi có thể xin vào được. Cả nhà, 19 người gồm cả bà con, chạy ra bến Bạch Đằng. Dọc đường, thỉnh thoảng lại thấy nhân dân tự vệ đang bắn chỉ thiên, chỉ lo bị chúng chận đường. Một lúc sau, đến được cổng BTL/HQ. Nhà tôi tiến đến, đưa ra một tấm hình của tôi chụp chung với cố vấn Mỹ khi tôi còn làm hạm trưởng HQ 612, và xin cho vào, nói tôi là hạm trưởng HQ 14 đang công tác ngoài khơi. Nhân viên gác cổng chỉ liếc qua rồi gạt đi. Vợ tôi thất vọng nghĩ thầm: Thế là vô phương rồi! May thay, đúng lúc đó, một sĩ quan HQ mang huy hiệu hạm trưởng từ trong đi ra. Nhận ra đó là Thiếu Tá Nguyễn Thụy Đ, cùng khóa với tôi mà vợ tôi được gặp một lần cách đây mấy năm về trước. Vợ tôi nhờ giúp đỡ và cả nhà được vào. Nhưng vào trong cổng rồi cũng không biết đi đâu. Bỗng nhiên, lúc đó một đoàn người trong một cơ sở bên trong đi ra và lên tàu. Cả nhà cứ theo họ và cuối cùng lên được HQ 3.
Đến Côn Sơn, sau khi chuyển các nhân viên muốn về nhà qua một hỏa vận hạm được chỉ định về Việt Nam, tôi cho chiến hạm ra khơi chạy vòng vòng đến sáng mới vào cặp với các chiến hạm khác.
Khoảng 9 giờ sáng, tất cả chiến hạm cùng nhau khởi hành qua Subic Bay, cách Côn Sơn 900 hải lý, với vận tốc trung binh 6 hải lý/giờ, vì có nhiều chiến hạm hư hỏng phải chạy chậm.
Vào lúc 3 giờ chiều ngày 2 tháng năm, HQ bắn chìm HQ 474 vì chiến hạm này hầu như bất khiển dụng.
Đến sáng ngày 3 tháng 5, HQ 14 cặp HQ 3 nhận thực phẩm và một số gia đình, trong đó có gia đình vợ tôi. Tình trạng biển trong các ngày qua thật êm, nhờ vậy không ai ói mửa.
Suốt buổi sáng ngày 5, chiến hạm Kirk (USS Kirk, DE 1087) tiếp tế thực phẩm cho đoàn tàu VNCH. Trung úy Don Swain và Trung Sĩ Richardson thuộc USS Kirk lên HQ 14 để chuẩn bị bàn giao chiến hạm cho HQ Hoa Kỳ. Sau này, khi đọc hồi ký của Đại Tá Kiểm và video The Lucky Few của HQ Hoa Kỳ tôi mới biết rõ vì sao phải bàn giao ngoài khơi thay vì trong hải cảng. Hồi đó Philippine đã công nhận ngụy quyền CSBV mà chúng đã tự đặt cho mình cái tên thật trái ngược với bản chất của nó, “VN Dân Chủ Cộng Hòa”. Vì vậy, Philippines nhất quyết từ chối việc nhập hải cảng Subic Bay của các chiến hạm VNCH. Cuối cùng, các cấp lãnh đạo của HQVN trên soái hạm HQ 3 và chánh phủ Hoa Kỳ đã tìm ra một giải pháp hợp lý: Chuyển giao các chiến hạm HQVN cho HQHK ngoài khơi Subic Bay, theo thỏa ước “Khi nào VNCH không còn dùng các chiến hạm này nữa, thì phải trả lại cho Hoa Kỳ”. Ngoài ra, để giữ thể diện cho HQ/VNCH, một lễ bàn giao cần được cử hành trên tất cả chiến hạm VNCH hiện diện ngoài khơi Subic Bay, gồm có: HQ 3, 11, 12, 14, 228, 229, 231, 401, 470, 505, 618, 800, 607, 17, 07, 08, 1, 404, 16, 502, 471, 5, và 801.
Ngày 6 tháng 5, HQ 14 còn cách Subic Bay 87 hải lý, thủy thủ đoàn được lệnh ném tất cả đạn dược, lựu đạn và súng cá nhân xuống biển, đồng thời vô hiệu hóa tất cả hải pháo và chuẩn bị kế toán nhiên liệu, nước ngọt, tình trạng chiến hạm để bàn giao ngày hôm sau.
Sáng ngày 7 tháng 5, các chiến hạm VNCH đã tập trung ngoài khơi Subic Bay. Đến trưa, lễ bàn giao chiến hạm bắt đầu trong bầu không khí trang nghiêm và cảm động. Trên HQ 14, tất cả thủy thủ đoàn và nhân viên quá giang đều tham dự. Trung Úy Don Swain, đại diện HQHK, tiếp nhận chiến hạm. Cảm động nhất là nghi thức hạ kỳ VNCH. Sau đó là lễ thượng quốc kỳ Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Sau khi lễ bàn giao chấm dứt, thủy thủ đoàn gỡ lon ném xuống biển, một số giữ lại để kỷ niệm. Không ai nói vói ai, rơm rớm nước mắt. Lá quốc kỳ VNCH vừa hạ xuống, đươc trao cho tôi. Tôi vẫn giữ gìn, trân quí nó cho đến ngày hôm nay. Lá quốc kỳ nhuộm màu phong sương này đã phất phới tung bay trên HQ 14 suốt mấy tháng cuối cùng của cuộc chiến. Phần tôi, ngoài mặt tôi vẫn giữ nét nghiêm trang, nhưng trong lòng, tôi đang khóc. Một cuộc chiến dài đăng đẵng đã chấm dứt trong đau thương, thất vọng! Bao nhiêu quân sĩ, tướng tá anh dũng của Quân Lực VNCH đã thương vong. Bao nhiêu gia đình đau khổ, mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất bố. Tất cả hy sinh đó chỉ nhắm một mục đích: Bảo vệ Miền Nam Tự Do. Nay, tất cả hy vọng đã trở thành mây khói!











Lễ Hạ Quốc Kỳ VNCH
trên HQ 14

(Do Bùi Dương L chụp)

Lễ Thượng Quốc Kỳ Hoa Kỳ trên HQ 14
(Do Bùi Dương L chụp) 

Tuy đã nhận bàn giao, Trung Úy Don Swain vẫn yêu cầu tôi tiếp tục điều khiển nhân viên và đưa chiến hạm vào trong Subic Bay. Lần lượt, các chiến hạm vào hải cảng. HQ Hoa Kỳ không cho phép các hạm trưởng VNCH tự cặp cầu và HQ Hoa Kỳ cũng không đủ phương tiện để chuyên chở tất cả thủy thủ đoàn và người quá giang vào bờ. Vì vậy, tôi phải vận chuyển HQ 14 chờ trong hải cảng đến khi tàu kéo của HQ Hoa Kỳ dòng chiến hạm vào cặp cầu. Sau đó, tôi có vài lời từ giã nhân viên quá giang và thủy thủ đoàn trước khi họ rời chiến hạm.
Theo lời yêu cầu của HQ Hoa Kỳ, tôi cho Trung Úy Dân và vài nhân viên cơ khí cùng vô tuyến Tuấn tiếp tục ở lại chiến hạm để lo máy móc cho đến khi tôi rời chiến ham và tàu dòng của HQ Hoa Kỳ hoàn tất việc đưa HQ 14 ra buộc phao trong hải cảng thì tắt hết máy móc và theo tàu dòng vào bờ.

Khi tôi vào phòng ăn sĩ quan, các sĩ quan an ninh của HQ Hoa kỳ đã có mặt ở đó, chờ tôi cho biết tình hình trên quần đảo Trường Sa trong thời gian HQ 14 hoạt động quanh quần đảo này.
 
Sau khi thuyết trình cho họ, tôi cùng gia đình rời chiến hạm. Tuy tôi không còn mang cấp bậc, anh quân nhân TQLC Hoa kỳ đang đứng gác hạm kiều vẫn nhận ra tôi và nghiêm chỉnh đưa tay chào. Tôi chào lại anh, và quay lại chào lá quốc kỳ Mỹ, chào HQ 14 thân yêu một lần chót, và rời chiến hạm. Bây giờ, cũng như tất cả nhân viên của tôi, tôi sẽ bắt đầu một hành trình mới đến đất tự do. Cuộc hành trình này, tuy không nguy hiểm, nhưng chắc không kém cam go, bất định.

Viết tại Hoa Kỳ ngày 22 tháng 3 năm 2017

Phạm Thành


 
 






Hộ tống hạm HQ.11 và những ngày biến loạn tháng tư đen - Vũ Ngọc Văn
 
https://hoiquanphidung.com/showthread.php?14330-H%E1%BB%99-t%E1%BB%91ng-h%E1%BA%A1m-HQ-11-amp-nh%E1%BB%AFng-ng%C3%A0y-bi%E1%BA%BFn-lo%E1%BA%A1n-th%C3%A1ng-t%C6%B0-%C4%91en


 Lời nói đầu:

Bài hồi ký này đã được đăng trên Đặc san Gươm Thiêng phát hành ngày 19-06-1985. Gần đây có vài hồi ký liên quan đến trận chiến tại eo biển Cà Ná Phan Rang mà HQ.11 đã tham dự. Vì thế, tác giả cố gắng viết lại bài hồi ký năm cũ bằng những điều mắt thấy tai nghe, cập nhật những dữ kiện mới cùng loại bỏ các chi tiết sai sót trước đây để ghi nhớ công lao của thuỷ thủ đoàn HQ.11. Nhớ một kỷ niệm vui trên đài chỉ huy một buổi tối năm xưa khi chiến hạm tham dự các cuộc di tản dồn dập trong tháng 4/1975, Hạm Trưởng thấy thuộc cấp qúa mệt mỏi trong nhiệm sở tác chiến liên tục, mới hỏi đùa một nhân viên giám lộ người miền Nam: “Phấn, mày có biết Hà Nội chưa?”. Hạ Sĩ giám lộ Phấn trả lời: “Dạ, chưa” thì Hạm Trưởng tiếp: “Đời mày chưa biết Hà Nội, đến đời con mày sẽ không biết Huế, Đà Nẵng rồi đến đời cháu mày sẽ không biết Sài Gòn”. Cả đài chỉ huy cười vui mà thấm thía, tôi lúc đó mới buột miệng nói: “ Con cháu của Phấn không biết Huế, Sài Gòn nhưng chúng nó biết Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi thưa hạm trưởng”. Không ngờ câu nói đùa vui hôm đó đã là điềm báo trước cho cuộc đời tha hương lưu lạc nơi xứ người của phần lớn thủy thủ đoàn HQ.11. Bây giờ, Hạm Trưởng Hải Quân Thiếu Tá Phạm Đình San đang lưu lạc bên miền Nam California; Hạm Phó HQ Thiếu Tá Trần Đức Huân trôi giạt sang đất Úc và đã ra người thiên cổ năm 1987; Sĩ quan đệ tam Hải quân Đại Úy Vũ Đức Thiệu cư ngụ tại Santa Ana từ năm 1991; Cơ Khí Trưởng HQ Trung Úy Cơ Khí Ngô Việt Hùng định cư tận vùng đất giá băng lạnh lẽo thành phố hải cảng Halifax, tỉnh bang Nova Scocia, Canada; trưởng phiên chi đội 1 hải hành HQ Trung Úy Nguyễn Lộc Thọ đang định cư tại Montréal, Canada; trưởng phiên chi đội 2 HQ Trung Úy Huỳnh Thiện Khiêm đang ở Melbourne cùng vợ con và đàn cháu ngoại; trưởng phiên chi đội 3 HQ Trung Úy Nguyễn Đắc Minh (Khóa 25 Võ Bị) sang Mỹ muộn màng theo diện HO cơ cực vất vả ở San Jose. Dù đã  42 năm qua từ khi tàn cuộc chiến, nhưng mỗi khi tháng Tư về lòng tôi vẫn ngậm ngùi nhớ lại những kỷ niệm năm xưa của một thời chinh chiến còn in đậm trong ký ức:

Một năm người có mười hai tháng
Ta trọn năm dài một tháng Tư.
(Thơ Xuân Đất Khách - Thanh Nam)







Hộ Tống Hạm Chí Linh HQ.11

Chiều ngày 31-03-1975 Hộ Tống Hạm HQ.11 được lệnh khẩn cấp từ Cam Ranh hải hành ra Qui Nhơn để bảo vệ thành phố này đang bị áp lực Cộng quân uy hiếp nặng nề. Trước đó chiến hạm đã di tản Duyên Đoàn 21 tại Đề Gi về căn cứ Cam Ranh. Qui Nhơn là thành phố phía Bắc của Quân Khu 2 thuộc khu vực trách nhiệm của Sư Đoàn 22 Bộ Binh do Chuẩn Tướng Phan Đình Niệm chỉ huy, bây giờ đang là ải địa đầu chống trả các đợt tấn công ồ ạt của các Sư Đoàn CS vì Quân Khu 1 ở Đà Nẵng đã di tản từ hai ngày qua. Lúc ấy vào khoảng 6 giờ chiều ngày 31-03-1975, HQ.11 cón cách Qui Nhơn 50 hải lý, tôi lên đài chỉ huy nhận phiên trực hải hành từ 6 giờ đến 8 giờ tối. Vừa bước lên đài chỉ huy, tôi nhận thấy một bầu không khí căng thẳng vì đông đảo các sĩ quan hiện diện. Hạm Trưởng là Hải Quân Thiếu Tá Phạm Đình San (Khóa 10 SQHQ/Nha Trang) bận rộn liên lạc trên máy truyền tin với các giới chức thẩm quyền tại Qui Nhơn, được biết tình hình tại đó đang nguy ngập cần gấp các chiến hạm đến yểm trợ hải pháo. Cùng lúc đó, chiến hạm tôi thấy lố nhố nhiều chiến hạm bạn đang trên đường từ Đà Nẵng di tản về, bắt đầu bằng những chấm đen nhỏ xa tít tắp từ cuối đưòng chân trời. Đó là các chiến hạm chuyển vận thuộc hạm đội Hải Quân Việt Nam đang di tản các đại đơn vị của Quân Đoàn 1 như các Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Sư Đoàn 2 và Sư Đoàn 3 Bộ Binh... từ Đà Nẵng về Cam Ranh hoặc Vũng Tàu. Mọi người hiện diện trên đài chỉ huy đều ngỡ ngàng vì không ngờ tướng Ngô Quang Trưởng lại để Quân Khu I thất thủ nhanh chóng đến như thế. Chiến hạm vẫn lặng lẽ tiến về phương Bắc, ngược chiều với các chiến hạm bạn đang lũ lượt di tản, chạy cách bờ khoảng 6 hải lý (tương đương gần 11 km). Mặt trời đang chiếu những tia nắng yếu ớt của buổi chiều tà, bóng tà dương tròn đỏ thẫm đang từ từ lẩn khuất sau dãy Trường Sơn như giấu mặt để khỏi chứng kiến cảnh đau lòng của quân dân miền Nam đang trốn chạy làn sóng đỏ. Khi mặt trời vừa khuất bóng, tiếng còi trên đài chỉ huy vang lên để cử hành lễ hạ kỳ. Mọi người đứng nghiêm chào lá quốc kỳ đang hạ xuống, sau đó chiến hạm bật đèn hải hành. Lúc đó các chiến hạm bạn đang tiến đến gần, đèn hải hành xanh đỏ lấp lánh cả một vùng biển trước mặt. Hạm Trưởng cho giám lộ đánh đèn để nhận diện từng chiến hạm. Thôi thì đủ cả, nào là HQ.501, HQ.503, HQ.404, HQ.802, HQ.402, HQ.801.... Được biết Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đang di tản trên chiến hạm HQ.404. Các chiến hạm nhỏ thì chạy sát bờ chen lẫn các duyên tốc đĩnh PCF, Coast Guard, Yabuta,... Qua máy truyền tin, Hạm Trưởng HQ.501 là HQ Trung Tá Võ Duy Kỷ (Khóa 11 SQHQ/Nha Trang) cho hạm trưởng tôi biết tình hình thê thảm tại Đà Nẵng và riêng cá nhân anh bị kẹt vợ con ngoài đó, lái tầu xuôi Nam mà lòng anh đau như cắt. Đó là hình ảnh đau thương mà có lẽ trong đời tôi mới có dịp chứng kiến một quân đoàn di tản thê thảm như thế.HQ.11 vẫn lặng lẽ ngược chiều với các chiến hạm bạn tiến về phương Bắc hướng về Qui Nhơn trong đêm. Sáng ngày 01-04-1975, chiến hạm yểm trợ hải pháo cho các đơn vị bộ binh trong bờ. Thành phố đang rơi vào tình trạng nguy ngập, các đơn vị đóng quân của Tiểu Khu Bình Định và Sư Đoàn 22 Bộ Binh đang bị Cộng quân pháo kích nặng nề. Doanh trại của Hải quân đóng cạnh cửa sông gồm Hải Đội 2 Duyên Phòng và Tiền Doanh Yểm Trợ Tiếp Vận Qui Nhơn dưới quyền chỉ huy của HQ Trung Tá Võ Hữu Danh và HQ Trung Tá Lê Văn Thự đang chuẩn bị di tản. Quanh cửa biển, các chiến hạm thuộc Hải Đội Tuần Dương đều hiện diện đông đủ dưới sự chỉ huy tổng quát của Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, phụ tá bởi Tư Lệnh Hạm Đội là HQ Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn. Tướng Minh đã được chỉ định chức vụ Tổng Trấn Qui Nhơn thay thế Chuẩn Tướng Phan Đình Niệm di tản ra biển trên một chiếc PCF vì kiệt sức ho ra máu chạy ra chiến hạm HQ.11. Hạm Trưởng tôi vội trình sự việc cho tướng Minh vừa đến Qui Nhơn biết và được lệnh chỉ thị chiếc PCF chở tướng Niệm sang HQ.3 có tướng Minh để tịnh dưỡng, giao quyền chỉ huy lại cho viên Tư Lệnh Phó tên là Trung điều động sư đoàn di tản.

Buổi sáng hôm đó, Qui Nhơn hầu như đắm chìm trong vùng lửa đạn, SĐ 22 BB đang bị VC tấn công dữ dội, Đại Tá Tư Lệnh Phó Trung đã bình tĩnh điều động các trung đoàn dưới quyền đẩy lui các đợt tấn công, khéo léo rút dần vào thành phố để ra cửa biển cho các tàu nhỏ Hải quân bốc ra khơi. Khoảng 10 giờ sáng, doanh trại Hải quân được lệnh phá hủy, đài kiểm báo cũng đốt bỏ trước khi di tản. HQ.11 đã đón nhận khoảng trên 200 quân nhân Hải Quân di tản này. Trên mặt biển, các duyên tốc đĩnh PCF dưới sự chỉ huy của Trung Tá Danh lướt sóng chạy ngang dọc và bắn súng cối 81 ly vào bờ để yểm trợ các đơn vị bạn trên đường rút ra biển di tản. Trong lúc hải pháo, một duyên tốc đĩnh đã bị tai nạn khi quả đạn 81 ly nổ tại nòng khiến cho xạ thủ tử thương tại chỗ. Đến trưa 01-04-1975 Cộng quân đã tiến chiếm nhiều nơi trong thành phố, các đơn vị bộ binh trên đường rút lui đã bị VC pháo kích đuổi theo gây nhiều tổn thất về nhân mạng. Tướng Hoàng Cơ Minh liền ra lệnh tất cả chiến hạm được phép xử dụng hỏa lực tối đa bắn vào các vị trí CS trong thành phố. Tư lệnh Hạm Đội liên tục gọi máy cho chiến hạm tôi bắn hải pháo vào bờ. Hạm Trưởng vì mấy ngày liền nói chuyện, hò hét trên máy truyền tin nên bị khan giọng mệt lả. Các chiến hạm đồng loạt nã hải pháo vào bờ, gây ra những đám cháy với những cột khói đen mù mịt bầu trời. Nhờ thế mà các đơn vị Bộ Chì Huy 2 Tiếp Vận, Tiểu Khu và các Trung Đoàn của SĐ22BB mở đường máu chạy ra bờ biển và bơi ra các chiến đĩnh. Sau này chúng ta ghi nhận một tấm gương tuẫn tiết thật can trường của vị Đại Tá Trung Đoàn trưởng TrĐ.42 BB Nguyễn Hữu Thông đã tự sát không chịu di tản.

Đến 4 giờ chiều, trong lúc HQ.11 đang say sưa nã 76,2 ly vào khu vực Cầu Đôi và trận chiến càng khốc liệt hơn với từng toán quân nhân túa ra bờ biển di tản thì máy truyền tin nhận được tin khẩn cấp từ Trung Tâm Hành Quân Vùng 2 Duyên Hải tại Cam Ranh cho biết Nha Trang đang hối hả di tản, thành phố đang bỏ trống vì Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 của Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã hoàn toàn mất liên lạc. Tướng Hoàng Cơ Minh chỉ thị cho chiến hạm tôi chỉ huy một chiếc Hộ Tống Hạm và một Trợ Chiến Hạm lập tức trở về Cam Ranh ngay, bỏ lại sau lưng cảnh chiến trường khốc liệt với lửa đạn ngút trời. Vài giờ sau, tin xấu lại nhận thêm là Tiểu Khu Khánh Hòa, Đặc Khu Cam Ranh, Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang do Phó Đề Đốc Nguyễn Thanh Châu làm Chỉ Huy Trưởng đã di tản. Tướng Minh vội huy động các chiến hạm, chiến đĩnh tác xạ tối đa và tiến sát vào bờ để bốc các chiến hữu bộ binh càng nhiều càng tốt. Sau đó, ông giao chiến trường lại cho HQ Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn chỉ huy, tướng Minh theo HQ.3 rời vùng trở về Cam Ranh trước. Thế là chỉ trong vài ngày ngắn ngủi, tình hình chiến sự đã suy sụp quá mau chóng, ngoài sức dự liệu của các cấp chỉ huy, tướng Minh đã trúng kế “điệu hổ ly sơn” của thượng cấp khi chỉ định ông làm Tổng Trấn Qui Nhơn khiến ông bỏ nhà trống, dốc toàn lực lượng ra chiến đấu tận Qui Nhơn xa xôi này, trong khi Cam Ranh và Nha Trang đang bỏ chạy. Đêm hôm đó, đi phiên hải hành ai nấy đều mỏi mệt, kinh hoàng vì các biến cố đau xót ập xuống đất nước dồn dập. Trên hệ thống âm thoại đêm đó, tôi nghe được giọng nói lo âu của HQ Đại Tá Nguyễn Văn Hớn Tư Lệnh Phó V2DH báo cáo tình hình cho tướng Minh:

- Trình thẩm quyền, nhà lớn hiện nay đã mất liên lạc với Quân Đoàn 2, Tiểu Khu Khánh Hòa, TTHL/HQ/Nha Trang, Bộ Chỉ Huy 5 Tiếp Vận cùng tất cả các đơn vị bộ binh tại đây. Chỉ còn duy nhất Hải Quân tại bán đảo này. Xin thẩm quyền cho chỉ thị để tôi thi hành.

Tướng Minh vẫn điềm tĩnh, giọng nói dõng dạc trong máy:

- Tôi nhận rõ, anh ở nhà cố gắng điều động thuộc cấp giữ vững vị trí, chờ tôi về.

- Thẩm quyền cho biết bao giờ mới về tới nhà lớn? (Cam Ranh)

- Khoảng 4 giờ chiều mai.

Đến 6 giờ chiều 02-04-1975 chiến hạm tôi về đến vịnh Cam Ranh chở hơn 200 quân nhân Hải Quân di tản, chiến hạm nhận lệnh neo, chờ lệnh mới chứ không được phép cặp cầu. Tướng Minh đã về đến trước đó vài giờ, ông vừa điều động BTL/V2DH chuẩn bị di tản và xin lệnh của Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Phó Đề Đốc Diệp Quang Thủy nhiều lần lên máy bảo chờ lệnh Bộ Tổng Tham Mưu. Từng giây phút căng thẳng chờ đợi chậm chạp trôi qua, tướng Minh phải thúc hối mãi, cuối cùng mới nhận được lệnh ngắn gọn từ tướng Thủy: “RÚT BỎ CAM RANH”. Thế là một căn cứ hải quân tối tân, đầy đủ tiện nghi rộng lớn phút chốc được lệnh phá hủy, đặc biệt là kho đạn, bồn dầu, trung tâm truyền tin điện tử... Cuối cùng đoàn hạm đội rút khỏi vịnh Cam Ranh chở theo một số lớn đồng bào, chiến hữu di tản một lần nữa về Vũng Tàu. Trên đường xuôi Nam, chiến hạm tôi đã khéo léo tước đoạt vũ khí cá nhân của tất cả quân nhân quá giang để tránh sự nổi loạn trên tàu. Khi đến Vũng Tàu, chiến hạm cặp vào cầu Alaska trong Căn Cứ Hải Quân Cát Lở để cho số quân dân di tản lên bờ. Nghỉ bến chỉ được một ngày, chiến hạm tôi sau khi đi chợ mua thực phẩm, tiếp tế nhiên liệu, nước ngọt đầy đủ lại nhổ neo lên đường ra tăng phái cho chiến trường Phan Rang cùng với các chiến hạm tuần dương khác. Sáng ngày 05-04-1975 chiến hạm tôi có mặt tại vùng biển Phan Rang. Được biết tỉnh lỵ này cũng đang hỗn loạn, Đại Tá Trần Văn Tự là Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng đã bỏ nhiệm sở di tản về Vũng Tàu trước đó, nhưng sau ông phải nhận lệnh trở lại Phan Rang tử thủ. Trong những ngày chiến hạm tôi yểm trợ vùng biển này, có lần HQ.11 được lệnh ra thám sát tình hình tại vịnh Cam Ranh. Từ ngoài khơi cách bờ 3 hải lý, quan sát bằng ống nhòm, chúng tôi đã thấy bóng Cộng quân xuất hiện, lá cờ xanh đỏ đã treo trên cột cờ. Hạm Trưởng liền gọi máy báo cáo cho tướng Hoàng Cơ Minh biết rõ sự tình, tướng Minh liền xin máy bay ra oanh tạc. Hiện nay, khu vực trách nhiệm của tướng Minh thu hẹp chỉ còn hai tỉnh Phan Rang và Phan Thiết mà thôi. Trong thời gian này chúng tôi nhận một cái tin đau buồn cho quân chủng là thủ khoa khóa 9 SQHQ/Nha Trang là HQ Trung Tá Hà Ngọc Lương đã tự sát tại quân trường Nha Trang cùng với vợ và 3 đứa con vì bị kẹt lại không xuống tàu di tản kịp.

Sau những ngày bi thảm đầu tháng Tư, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh Phan Rang lập thành “Phòng Tuyến Thép” nhằm ngăn chận làn sóng đỏ tại nơi quê hương của Tổng Thống. Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được giao phó trọng trách này, giữ chức Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 3, dưới quyền có Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh, Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang Sư Đoàn Trưởng Sư Đoàn 6 Không Quân, Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh Tư Lệnh Hải Quân Vùng 2 Duyên Hải. Ngoài ra Phan Rang còn được tăng phái thêm Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù do Đại Tá Nguyễn Thu Lương chỉ huy. Trong thời gian này, tỉnh lỵ Bình Thuận bị áp lực Cộng quân nặng nề, tỉnh lỵ bị pháo kích từng đợt không dứt.


Sáng ngày 16-04-1975 Phan Rang bị thất thủ, Trung Tướng Nghi và Chuẩn Tướng Sang lọt vào tay Cộng quân, Chuẩn Tướng Nhựt leo trực thăng bay thoát ra biển được tuần dương hạm HQ.3 cứu vớt. Phan Rang mất, Phan Thiết bị áp lực CS đè nặng hơn vì ban đêm từng đoàn quân xa của địch rất dài rọi đèn pha tiến về phương Nam, từ ngoài khơi nhìn thấy rất rõ tại eo biển Cà Ná. Đêm hôm đó, HQ.11 cùng với một số chiến hạm vẫn tuần tiễu vùng biển Phan Rang, phát hiện từng đợt quân xa địch pha đèn chạy trên quốc lộ 1 ngang Cà Ná dài cả mấy cây số. Chiến hạm vội nã đại bác vào bờ, đồng thời báo cáo cho tướng Minh xin phi cơ ra oanh tạc. Hai phi đội F.5 và A.37 bay đến oanh tạc, bị lực lượng phòng không địch bắn trả dữ dội, đạn lửa đan kín một vùng trời. Một máy bay A.37 bị bắn rớt, phi công nhảy dù đáp trên một ngọn núi (có thể là phi công Lý Tống).

Sáng ngày 17-04-1975 toàn tỉnh Phan Rang hầu như nằm trong vùng kiểm soát của CS, chỉ còn kẹt lại một vài đơn vị nhỏ Nhảy Dù đang kẹt gần eo biển Cà Ná, chuẩn bị rút về quận lỵ Tuy Phong cách đó 10 km để chờ các tàu Hải Quân vào đón. Dương Vận hạm HQ.503 đang thả neo ngoài khơi cách bờ 5 hải lý, chỉ huy chiến thuật các chiến hạm trong vùng đang nhận người di tản chạy ra tàu. Trong lúc đó, tướng Minh đang trên HQ.3 ra đây để trực tiếp chỉ huy, ông đích thân chỉ thị cho Hạm Trưởng tôi phải bắn sập cây cầu Núi Đá Chẹt tại eo biển Cà Ná để cắt đứt đường chuyển quân của địch vào Phan Thiết. Được biết cây cầu này rất kiên cố, được hãng thầu RMK xây cất nên khó lòng triệt hạ được.

Tuân lệnh tướng Minh, chiến hạm tôi trong nhiệm sở tác chiến toàn diện suốt ngày hôm đó, tiến vào gần bờ và chạy song song để hai khẩu 76,2 và 40 ly cùng đồng loạt tác xạ. Bắn nhiều lần nhưng cây cầu vẫn cứ trơ trơ. Trong khi đó, viên phi công lâm nạn trên ngọn núi đêm qua, thỉnh thoảng dùng tấm gương rọi ánh nắng mặt trời ra chiến hạm xin tiếp cứu. Chiến hạm chỉ biết xử dụng quang hiệu đánh đèn an ủi viên phi công, nhưng biết làm sao mà tiếp cứu đây!

Đến 2 giờ chiều, đơn vị Dù bị VC tấn công dồn dập, được lệnh mở đường máu tiến về quận Tuy Phong để các chiến đĩnh thuộc Duyên Đoàn 27 đón ra khơi. Hạm Trưởng nóng lòng vì bắn mãi không triệt hạ được cây cầu nên đổi chiến thuật, vận chuyển chiến hạm từ ngoài khơi nhắm thẳng vào cây cầu để cho khẩu pháo 76,2 bắn thẳng từng phát vào chân cầu, nhưng kết quả vẫn chưa như ý. Khi tàu còn cách bờ nửa hải lý, bất ngờ 4 chiếc xe tăng T.54 của VC lù lù xuất hiện, pháo ra chiến hạm tới tấp. Con tàu vội vận chuyển đổi hướng ra khơi, Hạm Trưởng ra lệnh tay lái hết bên mặt, đồng thời tăng vận tốc từ “hai máy tiến hai” sang thành “hai máy tiến ba” (chiến hạm bị cong trục láp từ trước, chưa được lên ụ sửa chữa nên không thể chạy “hai máy tiến full” được). Lúc đó, tôi đứng trên đài chỉ huy, nhìn vào trong bờ thấy 4 khẩu pháo trên xe tăng VC đua nhau chớp lửa,từng quả đạn rít gió bay ra chiến hạm âm thanh réo rú đến rợn người, rớt xuống biển nổ vang tạo nên những cột nước trắng xóa bao quanh chiến hạm. Hạm Trưởng vẫn điềm tĩnh lái tàu ra khơi, đồng thời ra lệnh cho các khẩu pháo sau đài chỉ huy tác xạ vào bờ phản pháo. Con tàu lắc lư, máy tàu gầm rú chạy xịt khói, chân vịt rung chuyển khua vang cùng các khẩu hải pháo đua nhau nổ ròn rã như tiết tấu bản nhạc của tử thần.

Mãi hơn mười phút sau, con tàu mới chạy thoát khỏi tầm đạn của đối phương. Hai khẩu đại bác 40 ly ở sân giữa vì bắn trả liên tục quá nhiều nên nóng đỏ cả nòng súng, viên đạn không bay đi xa được. Kiểm soát lại sự tổn thất, chiến hạm tôi chỉ bị trúng duy nhất một quả đạn xuyên hông từ tả hạm lúc con tàu quay mũi đổi hướng ra khơi đưa cả hông tàu cho VC bắn, làm cho Thượng Sĩ I Vô Tuyến Nguyễn Văn Bàng tử thương và hai thủy thủ khác bị thương nơi xương sống. Đau xót cho Thượng Sĩ Bàng, đêm qua anh vừa nhận điện tín vợ con đã di tản từ Nha Trang vào đến Sài Gòn. Tin vui vừa nhận được còn đó thì nay anh đã đền nợ nước, vĩnh biệt vợ hiền con thơ, vĩnh biệt các chiến hữu cùng anh chống trả bọn Cộng sản vô thần trong những ngày tối đen của tổ quốc. Hạm Trưởng với nét mặt đầy xúc động, lên máy báo cáo trực tiếp cho tướng Minh:

- Trình thẩm quyền, chiến hạm tôi vừa đụng độ với xe tăng T.54 Việt Cộng, một thằng em bị bắn nát đầu thê thảm quá, hai thằng em khác bị thương. Bây giờ nghĩa tử là nghĩa tận, xin phép thẩm quyền cho tôi được rời vùng để đưa các em tôi về Sài Gòn.

Đầu máy bên kia, tướng Minh ngỏ lời chia buồn và khuyên giải:

- Nhân danh Tư Lệnh Mặt Trận, tôi gửi lời chia buồn đến toàn thể thủy thủ đoàn HQ.11 và chia buồn cùng gia quyến chiến hữu vừa mới hy sinh. Nhưng tình hình mặt trận tại đây quá nguy ngập, đang cần sự có mặt của anh để cùng tôi bảo vệ vùng biển này. Tôi sẽ không quên công lao đó của các anh em, vậy anh nghĩ sao?

- Xin tuân lệnh thẩm quyền, HQ.11 sẽ sát cánh với thẩm quyền trong những giờ phút này. Đề nghị thẩm quyền cấp phương tiện cho tôi để đưa xác và tải thương các em tôi về Sài Gòn.

- Được, tôi sẽ phái thằng HQ.608 đến giúp anh việc đó.



Khoảng 7 giờ tối, tuần duyên hạm HQ.608 cặp bên tả hạm HQ.11 để tải thương và đưa thi hài Thượng Sĩ Bàng về Sài Gòn. Thủy thủ đoàn HQ.11 tập họp nơi sân lái để làm lễ tiễn đưa vĩnh biệt Thượng Sĩ Bàng. Nhìn xác anh mất đầu được bó gọn trên chiếc băng ca khiến anh em đều bồi hồi thương xót. Hạm trưởng ứng khẩu đọc một bài điếu văn tiễn biệt. Vẫn biết rằng cuộc đời lính chiến thì cái chết ập xuống bất ngờ nào ai tránh khỏi, nhưng nhiều anh em đã khóc vì tiếc thương anh. Xong phần nghi lễ, xác anh được chuyển sang HQ.608 cùng với một số nhân viên tháp tùng do Thượng Sĩ Trọng Pháo Tiếp làm trưởng toán để tham dự tang lễ của anh. Sau này nghe các anh ấy về kể lại, khi HQ.608 cặp cầu Cát Lái, xác anh được đưa thẳng vào nghĩa trang quân đội Biên Hòa, sau đó mới báo tin cho vợ con vào nhìn anh lần cuối. Vợ anh đã khóc ngất khi nhìn thấy thi thể anh, kêu gào thảm thiết: “Cái đầu của chồng tôi đâu? Trả cái đầu lại cho chồng tôi!!” làm cho mọi người hiện diện đều rướm lệ:

Anh mặc làm chi màu áo trắng
Để em nhìn thấy lại thêm thương
Anh ơi, sao nỡ chia lià vội
Để lệ ai rơi mấy dặm đường
(thơ Thụy Châu)

Đó là hình ảnh cái chết của một chiến hữu của tôi trên chiến hạm HQ.11 trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam mà tôi mạn phép tường thuật mất dòng tỉ mỉ trên đây.

Sáng ngày 18-04-1975 tình hình tại Cà Ná đã quá nguy ngập, các đơn vị bạn tại đây đều bị chận đường di tản và mất liên lạc, chỉ có một số nhỏ chạy thoát xuống quận Tuy Phong. Hộ Tống Hạm HQ.07 vào thay thế HQ.11 tiến vào gần bờ để yểm trợ bị VC pháo ra dữ dội nhưng may mắn vô sự. Khoảng 5 giò rưỡi chiều, Dương Vận Hạm HQ.503 đang ở vị trí cách bờ 4 hải lý (khoảng 7 cây số, một hải lý = 1852 m) bị Cộng quân pháo ra dồn dập. Đài chỉ huy bị trúng đạn nổ tung, gây nhiều tổn thất thương vong cho thuỷ thủ đoàn (trong đó có 4 sĩ quan hy sinh) và Hạm Trưởng HQ Trung Tá Nguyễn Văn Lộc bị thương ở đầu. Hạm Trưởng Lộc đã trúng mảnh đạn vào đầu, máu tuôn lênh láng. Ông đã mang mảnh đạn trong đầu khi di tản tị nạn sang Hoa Kỳ 1975, không thể giải phẩu mổ ra được suốt 30 năm trường, cuối cùng ông đã qua đời tại San Jose, California năm 2005. Các chiến hạm trong vùng vội chạy đến tiếp cứu và hải pháo vào nơi đặt súng của Cộng quân.



Riêng HQ.11 đang tuần tiểu ở phía Nam cách đó 2 hải lý, vội vàng nhấn còi nhiệm sở tác chiến, vừa chạy vừa bắn 76,2 vào bờ. Tôi thấy HQ.503 cứ chập choạng quay mũi vào bờ, trong khi các trái đạn pháo nổ văng nước tung tóe quanh tàu, lúc bị trúng đạn thì bụi khói đen như trái nấm tung lên. Mãi một lúc lâu, HQ.503 mới lên máy liên lạc, báo cáo trở ngại vận chuyển. Hạm Trưởng tôi vội ban lệnh cho thủy thủ đoàn chuẩn bị dây giòng để đến kéo HQ.503. Thủy thủ đoàn tập họp nơi sân giữa, chuyền tay kéo từng khúc dây giòng to tướng như con trăn từ dưới hầm chuyển lên làm cho ai nấy đều mệt lả vì cuộn dây quá dài. May mắn làm sao, HQ.503 lúc đó báo cáo tự vận chuyển được và cũng là lúc tướng Hoàng Cơ Minh lên máy chỉ thị cho HQ.11 được phép rời vùng và hộ tống HQ.503 về Sài Gòn.

Trên đường hải hành, khoảng 9 giờ tối đêm hôm đó, chiến hạm đang chạy ngang vùng biển Phan Thiết thì cũng vừa nhận tin tỉnh lỵ này vừa thất thủ, viên Đại Tá Tỉnh Trưởng đã chạy đến Duyên Đoàn 28 để xuống tàu di tản ra khơi và trên đường đến trình diện tướng Minh. Thế là toàn cõi Quân Khu 2 đã hoàn toàn thất thủ kể từ tối 18-04-1975 sau nhiều cố gắng ngăn chận làn sóng đỏ bất thành. Nửa đêm đó, tôi lên phiên trực hải hành, nghe trên hệ thống âm thoại HQ.503 báo cáo về Trung Tâm Hành Quân Biển tại Sài Gòn danh sách tổng cộng 25 chiến hữu thương vong mà lòng buồn não nuột. Khoảng 10 giờ sáng 19-04-1975, chiến hạm tôi và HQ.503 đã về tới cửa biển Vũng Tàu. HQ.503 được lệnh vào sông Lòng Tào về Sài Gòn sửa chữa khẩn cấp dưới sự hộ tống của các chiến hạm khác. HQ.11 nhận lệnh neo tại Vũng Tàu nghỉ bến, đi chợ mua thực phẩm, nhận tiếp tế đạn dưọc, nhiên liệu, nước ngọt chuẩn bị cho chuyến công tác sắp tới. Đồng thời, chiến hạm được thay thế hai nòng súng 40 ly mới. Thủy thủ đoàn rất mệt mỏi và tinh thần căng thẳng vì tham dự các trận chiến khốc liệt liên tiếp suốt mấy tuần qua.

Nghỉ bến được 36 tiếng, đúng 1 giờ sáng ngày 21-04-1975 chiến hạm nhận lệnh sẵn sàng nhổ neo lên đường công tác. Phó Đề Đốc Vũ Đình Đào Tư Lệnh Hải Quân Vùng 3 Duyên Hải từ một chiếc duyên tốc đĩnh cặp vào và được Hạm Trưởng đón tiếp lên tàu, cờ một sao Đô Đốc được kéo lên bay phất phới trên cột cờ. Chiến hạm kéo neo hải hành ra mặt trận Bình Tuy trực tiếp chỉ huy vùng lãnh hải trách nhiệm của ông thay thế cho tướng Hoàng Cơ Minh. Khoảng 8 giờ sáng, chiến hạm tôi đã đến nơi, vẫn đông đủ các chiến hạm bạn quanh vùng. HQ.11 từ từ cặp vào HQ.16 đang có mặt tướng Minh ở đó, tướng Minh vẫn tươi cười giơ tay vẫy chào tướng Đào. Khi chiến hạm vừa cặp xong, tướng Minh cùng với Hạm Trưởng HQ.16 là HQ Trung Tá Lê Văn Thì sang thăm viếng tàu tôi. Hạm Trưởng San đã hướng dẫn nhị vị tướng quân đi quan sát chỗ tàu tôi bị trúng đạn, lỗ đạn bắn thủng thành tàu và xuyên phá qua 5 lớp vách tàu rồi xuyên ra ngoài. Tướng Minh đã ngỏ lời ngợi khen lòng dũng cảm của toàn thể thủy thủ đoàn và hứa sẽ tưởng thưởng xứng đáng. Sau đó, tướng Minh bàn giao vùng trách nhiệm cho tướng Đào để trở về Sài Gòn nhận nhiệm vụ mới. Vài ngày sau, ông đã giữ đúng lời hứa, gửi công điện ra chiến hạm tôi ban thưởng rất nhiều huy chương và cho 2 nhân viên được thăng cấp đặc cách. Hạm Trưởng đã gửi phiếu trình đề nghị thăng cấp đặc cách cho Cơ Khí Trưởng là HQ Trung Úy Cơ Khí Ngô Việt Hùng và Hạ Sĩ I Vận Chuyển Viễn

Sau khi tướng Đào và bộ tham mưu sang HQ.16, chiến hạm tôi sang cặp chiếc Hải Vận Hạm HQ.400 để nhận lãnh thêm một số đạn đại bác. Tôi đã gặp vài người bạn trên chiến hạm này, ai nấy đều tay bắt mặt mừng, hỏi han nhau về những tin chiến sự dồn dập vừa qua, cùng thì thầm to nhỏ tính toán chuyện đời mình nếu miền Nam sụp đổ. Các chiến hạm về Vũng Tàu đều dự trữ lương thực, gạo chất đầy kho, cá khô, nước mắm đóng thùng bốc mùi tanh tưởi..

Được những giây phút hiếm hoi hai chiến hạm cận kề bên nhau, hai hạm trưởng rút vào phòng riêng tâm tình bàn thảo, hai thủy thủ đoàn từng nhóm tụ lại với nhau bên ly cà phê nóng chuyện trò, đồng thời cùng xem tivi trên HQ.400 để theo dõi tin tức. Suốt mấy tuần qua, mọi người đều chăm chú nghe ngóng tin tức đột biến trong các giờ phát thanh của đài BBC,VOA...mà đau xót, thở dài lo âu cho tình hình đất nước và thân phận mình. Bây giờ hai vị hạm trưởng này đều di tản sang Hoa Kỳ và định cư tại miền Nam California vùng Little Saigon (HQ Trung Tá Võ Quang Thủ - Hạm Trưởng HQ.400).

Tình cờ, chúng tôi được chứng kiến một quang cảnh lịch sử trên màn ảnh truyền hình đang trực tiếp tường thuật buổi lễ trao quyền Tổng Thống tại Dinh Độc Lập: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Lắng nghe bài diễn văn từ chức của ông Thiệu, chúng tôi đều thở dài ngao ngán. Ông Thiệu đã chửi Mỹ thậm tệ, tố cáo bạn đồng minh phản bội. Kết thúc bài diễn văn, ông Thiệu không quên hứa với đồng bào là tuy ông từ chức Tổng Thống, đồng bào sẽ có thêm một chiến sĩ, quân đội có thêm một trung tướng chiến đấu chống bọn Cộng sản đến cùng!!! Nhưng chỉ 4 ngày sau ông Thiệu đã nuốt lời hứa, cao chạy xa bay rời bỏ quê hương sang Đài Loan tối 25-04-1975 , bỏ lại đất nước và đồng bào bơ vơ sắp rơi vào gông cùm Cộng sản.

Yểm trợ mặt trận Hàm Tân được hai ngày thì tỉnh lỵ này lại bị Cộng quân tràn ngập. Quân ta trước khi di tản xuống tàu đã phá hủy kho đạn, phi trường cùng chiếc vận tải cơ C.130 bất khiển dụng tại đó. Đoàn hạm đội lại xuôi về Nam bảo vệ quận lỵ Xuyên Mộc.Thế là vùng hoạt động của Hải quân từ nay chỉ còn vỏn vẹn vùng đồng bằng đến mũi Cà Mau.

Sáng ngày 24-04-1975, chiến hạm tôi được lệnh thẳng từ Trung Tâm Hành Quân Biển tại Sài Gòn tăng phái cùng 3 tuần dương hạm ra tái chiếm lại quần đảo Trường Sa. Trước đó, lực lượng trú phòng tại đảo này báo cáo về Sài Gòn là các chiến hạm của Hải quân Trung Cộng đã tới chiếm đảo. Nhớ lại ngày 19-01-1974, bốn chiến hạm của HQ/VN đã hải chiến một trận kịch liệt với các chiến hạm Trung Cộng gây nhiều tổn thất thương vong cho cả hai bên, đặc biệt chiến hạm cùng loại với chiến hạm tôi là HQ.10 bị chìm.

Tuân lệnh trên, HQ.11 cùng với ba chiến hạm bạn theo đội hình trực chỉ ra Trường Sa. Thủy thủ đoàn bận rộn chuẩn bị ôn tập lại các nhiệm sở, nào là tác chiến, phòng không, đào thoát... để sẵn sàng trận hải chiến sắp tới. Nhưng vài tiếng đồng hồ sau dó, khi các chiến hạm đã rời xa đất liền thì Sài Gòn gọi máy ra hủy bỏ lệnh hành quân đó và chỉ thị các chiến hạm quay về vùng công tác cũ. Ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm..

Trở lại vùng biển Xuyên Mộc, tôi thấy các chiến hạm bạn đang bận rộn yểm trợ hải pháo cho các đơn vị bộ binh trong bờ. Khoảng nửa đêm 24-04-1975 Phó Đề Đốc Vũ Đình Đào chỉ thị chiến hạm tôi cùng với chiếc tuần duyên đĩnh HQ.712 ra đảo Phú Quý để thiết lập đầu cầu di tản. Được biết đảo Phú Quý nằm ngoài khơi tỉnh Phan Thiết, cách đất liền 80 hải lý (145km), nằm trên hải đạo từ Vũng Tàu đi Phi Luật Tân. Dân cư sinh sống trên đảo rất trù phú nhờ sinh sống bằng nghề đánh cá khá phát đạt.

Khoảng 7 giờ sáng ngày 25-04-1975, HQ.11 cùng với HQ.712 đang lặng lẽ rẽ sóng hướng ra đảo Phú Quý thì phát hiện một chiến hạm Mỹ đang theo sát chúng tôi. Lúc ấy, mặt trời vừa ló dạng trước mũi chiến hạm, biển thật êm, tôi thấy chiến hạm Mỹ chạy song song với chiến hạm tôi khoảng cách 3 hải lý, bắt đầu dùng quang hiệu hỏi chúng tôi:

- What ship? 

Chúng tôi trả lời quang hiệu bằng tiếng Anh:

- Chiến hạm của Hải quân Việt Nam HQ.11. Chiến hạm Mỹ tiếp tục đánh đèn hỏi:

- Các anh là Hải quân miền Bắc hay Nam Việt Nam?

- Nam Việt Nam.

- Các bạn đi đâu?

Bị tra hỏi lôi thôi, hạm trưởng và mọi người trên đài chỉ huy đều bực dọc, buột miệng chửi thề. Ai đời trong vùng biển chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa mà một chiến hạm đồng minh dám xấc xược tra khảo láo lếu như thế. Hạm trưởng giận tím mặt, chửi thề om sòm, ra lệnh cho giám lộ đánh đèn trả lời:

- Chúng tôi đang thi hành công tác đặc biệt.



Nhận được câu trả lời như thế, chiến hạm Mỹ liền tăng máy tiến nhanh về hướng chiến hạm tôi. Hơn mười phút sau nó đã đến sát tàu tôi với các khẩu đại bác đều chĩa thẳng vào chiến hạm tôi. Chúng tôi nhận ra đây là chiếc Khu Trục Hạm USS.1052. Hạm trưởng vội liên lạc máy về Sài Gòn để can thiệp với Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ tránh ngộ nhận. Từng giây phút chậm chạp trôi qua, chiến hạm Hoa Kỳ chạy song song với tàu tôi với thái độ thiếu thân thiện. Hạm trưởng cho giám lộ đánh đèn với tàu Mỹ để nói chuyện bằng máy truyền tin VRC.46. Vài phút sau, hạm trưởng đã đàm thoại với hạm trưởng Mỹ bằng tiếng Anh để giải tỏa tình trạng căng thẳng và sau đó tàu Mỹ đã bỏ đi mất dạng.

Chiến hạm tôi vẫn tiếp tục hải hành và khoảng 1 giờ trưa thì đến đảo Phú Quý và thả neo cách bờ khoảng nửa hải lý tại phía Nam hòn đảo này. Từ ngoài khơi nhìn vào trong bờ, tôi nhận thấy dân chúng nơi đây có vẻ an cư lạc nghiệp, thái bình với những căn nhà gạch lợp ngói đỏ ẩn nấp bên những hàng dừa xanh sai trái. Chỉ một giờ sau có một ghe nhỏ chở viên Xã Trưởng cùng với ba viên Thiếu Úy Phân Chi Khu Trưởng đại diện chính quyền địa phương ra tiếp đón. Các viên chức này báo cáo cho chúng tôi biếtlà đảo đã mất liên lạc với đất liền từ mười ngày qua và đang sống trong tình trạng lo âu. Trên đảo đang chứa rất đông đồng bào từ đất liền chạy trốn thảm cảnh chiến tranh và đang lánh nạn tại đây. Hạm Trưởng liền báo cáo tin tức sơ khởi về Sài Gòn và đề cử Hạm Phó là HQ Thiếu Tá Trần Đức Huân lên bờ chỉ huy các đơn vị trên đảo. Hạm Phó Huân vừa đi phép về chiến hạm từ ba ngày qua. Nhưng giới chức thẩm quyền tại Sài Gòn không chấp thuận đề nghị này, chỉ thị hạm trưởng phải trực tiếp chỉ huy và gấp rút hoạch định kế hoạch để Sài Gòn đưa người di tản ra đảo. Trong lúc đó, chúng tôi phát hiện một chiến hạm Mỹ đang lảng vảng xa tít ở hướng Nam, có lẽ canh chừng mọi di chuyển của chiến hạm tôi. Chiều đó, hạm trưởng cho phép một nửa quân số cùng với hạm trưởng lên bờ chơi và thám sát tình hình. Còn hạm phó và một số anh em ở lại trực tàu. Thế là sau mấy tuần lễ gian khổ, hiểm nguy vì liên tục tham dự các trận chiến khốc liệt, chứng kiến cảnh di tản bi thảm của quân dân miền Nam, ai nấy đều mệt mỏi, lo âu. Chiều nay mới được thảnh thơi lên bờ dạo phố, mặc dầu chỉ là một hải đảo xa xôi để tạm quên đi bao nỗi nhọc nhằn vừa qua. Kiếp sống người thủy thủ cũng lắm vất vả, truân chuyên như thế đó. Ngày đêm theo chiến hạm lênh đênh trên biển cả đã bị vùi dập bởi những cơn biển động phũ phàng, thủy thủ đoàn mệt ngất ngư vì “say sóng”. Khi lên bờ dạo phố, đôi chân bước trên mặt đất mà vẫn thấy đất trời đang quay cuồng như cảnh con tàu đang lắc lư làm cho anh em lảo đảo vì “say đất”. Để rồi có vài anh em vừa hết cơn say đất, lại để hồn mình chơi vơi vì sóng mắt của giai nhân khiến cho mình lại lạc vào cơn say êm đềm thú vị nhất đó là “say tình”. Có thể nói cuộc đời lênh đênh phiêu bạt của người lính biển trong những ngày tháng gắn liền với trùng dương làm cho anh em có ba cái thèm mãnh liệt: thứ nhất thèm rau, thứ nhì thèm rượu, thứ ba là thèm ... đàn bà! Khi lên bờ, chúng tôi được các bạn Địa phương quân hướng dẫn di dạo một vòng quanh hòn đảo này. Sau đó, từng toán nhỏ tấp vào các quán nước ở chợ để được ngắm nhìn các cô chủ quán xinh xinh và thưởng thức các món ăn hải sản nơi đây như tôm hùm, cua rang muối, cá hấp, mực... cùng với các ly rượu đế pha với nước dừa ngọt lịm. Mọi người sau những ngày gian khổ, tạm gác nỗi lo âu trong lòng để hưởng một buổi chiều tuyệt đẹp và cảm thấy đời mình còn đáng sống. Đến tối chúng tôi trở về chiến hạm và nhổ neo đi tuần duyên quanh đảo.Sáng hôm sau về neo lại bến cũ, phân đội khác được lên đảo chơi, tình hình an ninh trên đảo vẫn khả quan. Trưa hôm đó, tuần duyên hạm HQ.608 từ Vũng Tàu ra chuyển giao tiền lương tháng 4/1975 cho chiến hạm tôi theo chỉ thị của tướng Vũ Đình Đào, vốn dành sẵn thiện cảm ưu ái rất nhiều cho hạm trưởng tôi. Trong ngày hôm đó, tàu tôi đã trao đổi với các viên chức địa phương vài thùng dầu để lấy một con heo. Buổi chiều hôm đó, thủy thủ đoàn đã được nhà bếp thết đãi một bữa tiệc nho nhỏ với món heo quay thật ngon lành. Trong khi ở đất liền tin tức chiến sự mỗi ngày càng bi đát hơn thì chúng tôi được hưởng mấy ngày công tác nhàn hạ hiếm hoi này. Nhưng đến 4 giờ sáng hôm sau 27-04-1975, chiến hạm tôi cùng với HQ.712 đang tuần tiễu quanh đảo, bỗng mất liên lạc truyền tin đầu giờ với các đơn vị bộ binh trong bờ. Sĩ quan đương phiên vội báo cáo sự việc cho hạm trưởng biết. Khoảng 5 giờ 30 sáng, HQ.712 đang cách tàu tôi 7 hải lý, báo cáo có một chiến hạm Bắc Việt đang xâm nhập đổ quân lên đảo. HQ.712 tiến đến gần để nhận diện rõ hơn, bất ngờ bị chúng tác xạ bằng súng thượng liên. HQ.712 bị trúng 4 viên đạn thượng liên nhưng may mắn vô sự, liền phản công tác xạ lại. Nhận thấy biến cố quan trọng, hạm trưởng cho nhấn còi nhiệm sở tác chiến. Lúc đó, tôi đang nằm ngủ say sưa dưới phòng vì vừa mãn phiên trực, nghe tiếng còi tác chiến dồn dập vang lên. Tuy ngỡ ngàng, nhưng với phản ứng quen thuộc của người lính chiến, tôi vội nhảy xuống giường, chụp cái áo vội mặc vào người, xỏ chân vào đôi dép và vừa chạy vừa cài khuy áo tiến về đài chỉ huy. Chỉ trong khoảnh khắc thủy thủ đoàn đều có mặt tại nhiệm sở, các khẩu đại bác đang nạp đạn và lên đạn lách cách, báo cáo cho đài chỉ huy biết: tất cả sẵn sàng. Khi ấy trời vừa tờ mờ sáng, chiến hạm đang tăng máy tiến về tàu địch để dễ dàng tác xạ. Nhưng màn ảnh radar báo cho biết khoảng cách còn xa 11.000 yards (10 km). Tàu địch biết gặp nguy nên tăng tốc độ chạy trốn. Chiến hạm tôi vì chỉ chạy được hai máy tiến hai nên sợ hụt con mồi, ra lệnh cho chiếc HQ.712 chạy tránh xa và khẩu 76,2 trước mũi bắt đầu khai hỏa. Từng phát đạn nổ vang trong buổi bình minh, rung chuyển cả thân tàu, chúng tôi hồi hộp theo dõi quả đạn đi bằng ống nhòm để chờ kết quả. Nhưng trái đạn không đến mục tiêu, rớt phía sau tàu địch gây ra những cột nước trắng xóa. Dù được điều chỉnh nhiều lần nhưng kết quả không như ý muốn. Cuối cùng tàu địch mỗi lúc một xa dần và khuất dạng về hướng Đông Bắc. Vừa lúc đó, bất ngờ trên bầu trời xuất hiện 3 chiếc khu trục cơ cánh quạt AD.6 của Đệ Thất Hạm Đội Mỹ gầm thét lượn vòng trên đầu chúng tôi. Chiến hạm liền đổi sang nhiệm sở phòng không. Trên boong tàu, các khẩu đại bác, đại liên đều chĩa nòng lên trời, đề phòng bạn đồng minh phản bội. Tình trạng căng thẳng suốt nửa tiếng đồng hồ, mãi đến khi tàu địch chạy khuất hẳn, ba chiếc phi cơ kia mới bay đi mất hút. Chiến hạm tôi cố gắng liên lạc nhiều lần với các đơn vị bộ binh trên đảo nhưng bặt vô âm tín. Tàu tôi và HQ.712 thả trôi cách bờ 1 hải lý, trước mặt trụ sở Ủy Ban Hành Chánh Xã để chờ phối kiểm tin tức. Khoảng 9 giờ sáng Cộng quân xử dụng bích kích pháo 81 ly đặt trước sân trụ sở xã, pháo ra chiến hạm tôi. Nhưng tầm pháo không đến tàu, nổ cách tàu khoảng 500m. Chiến hạm vờ chạy trốn ra khơi, bất thần quay lại và khẩu 76,2 trước mũi thanh toán mục tiêu thật gọn. Khẩu pháo 81 ly bị trúng đạn nổ tung, trụ sở xã bị sập, vài tên Cộng sản sống sót lom khom chạy trốn sang nhà dân gần đó. Khoảng 10 giờ sáng, một ghe nhỏ chở một người lính duy nhất chạy thoát ra biển, tắp gần đến chiến hạm và xin phép cho cặp. Khi chiến hạm cho phép cặp vào, đó là một hạ sĩ quan truyèn tin của đảo này trên vai có đeo một máy truyền tin PRC.25. Anh ta báo cáo cho chúng tôi biết các toán Cộng quân xâm nhập đảo cùng với các toán Cộng sản nằm vùng nổi dậy chiếm đảo từ lúc 4 giờ sáng. Chúng đã bắt giữ tất cả sĩ quan Phân Chi Khu Trưởng. Riêng viên xã trưởng may mắn thoát nạn vì đã quá giang HQ.608 về Vũng Tàu nhận chỉ thị từ đêm hôm qua. Hạm Trưởng báo cáo về Sài Gòn cho biết tình hình đột biến và xin quân tiếp viện ra đổ bộ tái chiếm hòn đảo này. Trong lúc chờ lệnh, chúng tôi phát giác xuất hiện rất nhiều ghe nhỏ từ bờ chạy ra đầy trên mặt biển, vây kín hai chiến hạm vào giữa. Quan sát kỹ bằng ống nhòm, chúng tôi nhận thấy thuyền nào cũng có hai người đàn ông vóc dáng lực lưỡng, không có vẻ gì là đồng bào di tản cả. Hạm Phó thúc hối Hạm Trưởng cho lệnh tác xạ. Hạm Trưởng ban lệnh đồng tác xạ, các khẩu súng nổ vang. Chiến hạm tôi và HQ.712 vừa chạy, vừa bắn khiến chúng lớp bị chìm, lớp khác chạy trối chết vào bờ.

Đến 2 giờ chiều 27-04-1975, Sài Gòn chỉ thị hai chiến hạm rời bỏ đảo Phú Quý và trở về Vũng Tàu ngay vì ở đó đang bị Việt Cộng bao vây và pháo kích dồn dập. Thế là chiến hạm đành trực chỉ về hướng Tây, bỏ lại sau lưng một hòn đảo vừa lọt vào tay giặc, cấp tốc trở về Vũng Tàu với trận chiến nhiều tàn khốc đang chờ đón chúng tôi. Trên đường đi, HQ.11 vẫn bị một chiến hạm Mỹ chạy song song ngoài xa bám sát chúng tôi. Đến 3 giờ sáng 28-04-1975, tàu tôi đã nhìn thấy ánh đèn chớp tắt của ngọn hải đăng Vũng Tàu thì trên mặt biển đầy những thương thuyền to lớn của Mỹ đang neo, cùng nhiều chiến hạm của Đệ Thất Hạm Đội đầy trên mặt biển, ánh đèn chiếu sáng rực như một thành phố trên biển. Khi còn cách xa Vũng Tàu, HQ.11 đã nhận lệnh yểm trợ hải pháo của Trung Tâm Hành Quân Vùng 3 Duyên Hải vì Cộng quân đã tiến chiếm tới cửa ngõ Vũng Tàu. Chúng tôi nhận lệnh mà chưa thể thi hành vì còn ở mãi ngoài khơi. Khoảng 7 giờ sang, tàu tôi đã đến gần Vũng Tàu, thấp thoáng sau lớp sương mờ, tôi thấy có nhiều tuần dương hạm, hộ tống hạm đang hải pháo vào phía Bắc thị xã Vũng Tàu giống như thị xã Qui Nhơn 4 tuần về trước. Trên mặt biển có HQ.802, HQ.505. HQ.12, HQ.07, HQ.400, HQ.5... đang bận rộn liên tục với các tàu nhỏ, ghe thuyền đưa người di tản chạy ra. Trên bầu trời, các trực thăng đang nhộn nhịp bay lượn đưa từng đợt người di tản ra các chiến hạm Hoa Kỳ. Đúng 9 giờ sáng, chiến hạm tôi từ từ vào cảng và thả neo tại đây. Được lệnh về thẳng Sài Gòn nhưng ai cũng ái ngại vì thấy Vũng Tàu sắp lọt vào tay Cộng quân, về Sài Gòn có khác chi chui đầu vô rọ. Hạm trưởng đã lộ nét tuyệt vọng than thở với nhân viên: “Việt Cộng mà bắt được tao thì chắc chắn đầu một nơi, gan ruột một nơi mất”, tìm cách nấn ná để theo dõi tình thế và chờ thủy triều lên. HQ.712 được trao trả V3ZH và chở người di tản. Vũng Tàu bị pháo liên tục không dứt, tướng Vũ Đình Đào ban lệnh di tản và các chiến hạm được phép “vận chuyển tự do”. Thị xã Vũng Tàu lúc ấy cực kỳ hỗn loạn, tràn ngập các quân dân từ miền Trung di tản vào, cùng với nhiều người từ Sài Gòn chạy ra để tìm đường lánh nạn Cộng sản. Trong lúc rối loạn này, bất ngờ có một chiếc LCM.6 cặp vào chiến hạm, chở theo một số nhân viên đi dự tang lễ Thượng sĩ Bàng trở về tàu. Các nhân viên này cho biết, quốc lộ 15 từ Sài Gòn ra Vũng Tàu đã bị gián đoạn, Sài Gòn đã bị pháo kích và miền Tây cũng bị cắt đứt tại Bến Lức, Long An. Trưa hôm đó, Vũng Tàu bị pháo kích dồn dập, gây ra nhiều đám cháy và thiệt hại nặng nề. Thị xã như đang lên cơn sốt tột độ với từng đợt trực thăng, chiến đĩnh, thuyền bè hối hả đưa người di tản ra biển. Mọi người nặng trĩu ưu tư, lo lắng cho gia đình bị kẹt lại nên đề nghị với hạm trưởng cứ đưa tàu về Sài Gòn. Chiến hạm nhổ neo và tiến vào sông Lòng Tào, bên hữu hạm là Vũng Tàu ngập chìm trong vùng lửa đạn. Chiến hạm trong nhiệm sở tác chiến , xuôi theo con nước lớn chạy vào trong sông, ngược chiều với các tàu chiến, thuyền ghe đang vội vã hướng ra biển đào thoát.

Khoảng 4 giờ rưỡi chiều, chiến hạm về tới Nhà Bè, có chiếc Dương Vận Hạm HQ.800 đang thả neo. Hạm phó cho nhân viên dùng cơm chiều sớm hơn thường lệ để luân phiên ứng trực nhiệm sở tác chiến.Khoảng 5 giờ chiều, tôi lên đài chỉ huy để thay thế người khác đi ăn cơm thì trời bất ngờ đổ xuống một cơn mưa đầu mùa thật lớn. Trên boong tàu, nhiều nhân viên vẫn đội mưa ngồi trong các ổ súng, ướt loi ngoi. Bấy giờ đài phát thanh Sài Gòn đang trực tiếp truyền thanh buổi lễ trao quyền Tổng Thống giữa cụ Trần Văn Hương cho Đại Tướng Dương Văn Minh. Tôi nhớ lời xướng ngôn viên đã ví von quang cảnh buổi lễ trao quyền này:” Đại Tướng Dương Văn Minh đã can đảm đứng lên nhận lãnh trọng trách lịch sử này trong giờ phút đen tối của đất nước, giống như bầu trời thủ đô đang bị các đám mây đen phủ kín báo hiệu một trận mưa to sắp đến...” Chẳng biết sau cơn mưa trời lại sáng hay không? Chỉ nghe thấy trong buổi lễ đó chỉ còn lèo tèo mấy giới chức cao cấp Việt Nam như Phó Thủ Tướng Nguyễn Văn Hảo, Trung Tướng Vĩnh Lộc, Trung Tướng Trần Văn Minh Tư Lệnh Không Quân, Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang Tư Lệnh Hải Quân. Còn các vị khác quan trọng hơn đã cao chạy xa bay tự bao giờ, không nghe nhắc đến. Rồi với giọng nói đều đều của Dương Văn Minh cất lên đọc bài diễn văn nhậm chức nghe thật buồn nản. Trong chỉ thị cho quân sĩ QLVNCH, tôi vẫn còn nhớ mãi câu nói của ông ta: "Tôi có đôi lời đến với các anh em trong QLVNCH. Tất cả phải ở nguyên vị trí chiến đấu. Không bỏ ngũ, không buông súng, mọi hành vi vô kỷ luật sẽ bị nghiêm trị”. Chiến hạm vẫn lầm lũi đi trong mưa tiến vào Sài Gòn, chúng tôi vừa lái tàu vừa lắng nghe radio. Khi trời vừa tạnh mưa thì buổi lễ vừa chấm dứt. Tàu giảm tốc độ để vào bến, con tàu xuôi theo con nước lớn nên vẫn lướt nhanh qua bến cảng Khánh Hội. Các khẩu súng vẫn đề phòng bất trắc, nòng hướng vào bờ. Khi tàu chạy ngang khách sạn Majestic, chúng tôi nhìn thấy sân thượng sập một góc vì trúng đạn pháo kích mấy ngày trước. Hạm trưởng cho giải tán nhiệm sở tác chiến chuyển sang nhiệm sở vận chuyển và dàn chào khi tiến vào bến Bạch Đằng. Chiến hạm vẫn giữ đúng nghi lễ, thổi còi chào Bộ Tư Lệnh Hải Quân cùng các chiến hạm bạn đang cặp bến. HQ.11 vẫn chưa được chỉ định vị trí cặp cầu dù đã gọi máy nhắc nhở nhiều lần cũng không xong, đành thả neo giữa sông Sài Gòn trước mặt Ty Quân cảng đúng vào lúc 6 giờ chiều 28-04-1975.

Vừa lúc đó, chúng tôi nghe tiếng bom đạn nổ rền từ hướng Tân sơn Nhất. Ai nấy đều ngơ ngác, máy truyền tin nhốn nháo cả lên. Bất ngờ, ba chiếc A.37 xuất hiện gầm thét trên bầu trời thủ đô, mọi người ngỡ rằng phe tướng Nguyễn Cao Kỳ đảo chánh nên chưa có phản ứng. Mãi 3 phút sau, các chiến hạm mới nhận được lệnh khẩn cấp: "F.5 không được bắn, A.37 tác xạ tự do”. Bấy giờ chúng tôi mới biết 3 chiếc A.37 là địch và chúng đang bay vòng trở lại, có ý nhào xuống chúng tôi. Các khẩu đại bác trên tất cả chiến hạm đều đồng loạt nổ dòn, bắn tới tấp vào các phi cơ đó, đạn nổ đan kín bầu trời. Chiến hạm tôi nhờ lợi thế đang neo giữa sông nên các khẩu súng đều tác xạ được cả, đạn nổ điếc tai. Đứng trên đài chỉ huy quan sát cảnh bắn máy bay, tiện tay tôi cũng chụp khẩu đại liên 30 bên tả hạm chĩa nòng lên trời và bóp còi say sưa.

Vì hỏa lực hùng hậu của Hải Quân cùng với các khẩu phòng không trên dinh Độc Lập nên 3 chiếc phi cơ địch không dám nhào xuống thả bom và bay khuất dạng về hướng Đông Bắc. Trong khi đạn nổ rền trời, một số đồng bào đang cưỡi Honda bên Thủ Thiêm dọc bờ sông, hoảng hốt bỏ xe nằm mọp xuống lề đường tránh đạn, bánh xe vẫn còn quay tít. Cũng trong lúc ấy, một chiếc vận tải cơ C.130 vừa cất cánh lên, vô tình lạc vào lưới đạn phòng không. Phi cơ bị trúng đạn, lảo đảo chơi vơi trên bầu trời nhưng rất may không rớt, cuối cùng đành hạ cánh khẩn cấp không di tản được. Sau khi 3 chiếc A.37 tẩu thoát, hai phi tuần F.5 gồm 4 chiếc bay lên săn đuổi. Hạm Đội ra lệnh tất cả các chiến hạm ngưng tác xạ và cho phép chiến hạm tôi vào cặp cầu L trước mặt Bộ Tư Lệnh Hạm Đội. Cầu tàu này đang có 4 chiếc Dương Vận Hạm đang cặp. Đó là HQ.502 vị trí 1 nằm ở trong cùng, kế đến HQ.501, rồi đến HQ.503 (bị pháo ngoài Cà Ná) và HQ.504. Chiến hạm tôi cặp phía ngoài cùng cạnh HQ.504, vị trí 5. Sau hơn một tháng công tác ngoài biển khơi, chiến hạm tôi nay trở về bến cũ với bầu không khí chiến tranh đang bao trùm thủ đô, dân chúng thủ đô đang sống trong cảnh hãi hùng như màn đêm đen tối đang phủ trùm xuống Sài Gòn vì bị cúp điện mãi đến hơn 9 giờ tối. Chỉ duy nhất doanh trại Hải Quân tại bến Bạch Đằng nhờ có máy đèn riêng nên có đèn điện sáng choang. Các đơn vị Hải Quân tại thủ đô đang trong tình trạng cấm quân 100%, canh phòng thật nghiêm ngặt, trong khi đó một số sĩ quan cao cấp đã và đang tìm đường đào tẩu. Sáng ngày 29-04-1975, đài phát thanh loan di lời kêu gọi của Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu yêu cầu Mỹ rút tất cả nhân viên về nước trong vòng 24 giờ. Trung Tướng Vĩnh Lộc được cử làm Tân Tổng Tham Mưu Trưởng từ tối qua, ban nhật lệnh yêu cầu quân sĩ giữ vững tay súng, chiến đấu đến cùng. Bầu trời thủ đô xuất hiện từng đoàn trực thăng bay vào để bốc người di tản ra biển. Trong khi đó, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 ở Biên Hòa đã thất thủ, từng đoàn quân xa đang nườm nượp chạy về Sài Gòn, đen kín cả cây cầu xa lộ Bình Lợi.Về hướng Tây Bắc, nghe tin Cộng quân đã tràn ngập SĐ.25BB , đang tiến vào cửa ngõ Sài gòn và giao tranh ác liệt đã xẩy ra từ Bà Quẹo về đến Ngã Tư Bảy Hiền. Một chiếc phi cơ C.119 bay lên tham chiến, chúng tôi nhìn thấy bị bắn rơi và phi công tử trận. Riêng các chiến hạm tại bến Bạch Đằng đều đặt trong tình trạng sẳn sàng chờ lệnh mới. Tinh thần binh sĩ rất hoang mang và lo âu. Tư Lệnh Hải Quân Chung Tấn Cang vừa cách chức HQ Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn Tư Lệnh Hạm Đội vì tiết lộ tin di tản quá sớm, thay thế bởi HQ Đại Tá Phạm Mạnh Khuê. Các chiến hạm khiển dụng nhận lệnh sẳn sàng rời bến bất cứ lúc nào. Trên cầu tàu Hạm Đội, chúng tôi thấy HQ Trung Tá Nguyễn Văn Tánh Hạm Trưởng HQ.502 đang cùng với một số nhân viên đi trên chiếc xe Dodge chở các vật dụng hải hành xuống tàu, vì HQ.502 đang đại kỳ sửa chữa chưa xong.


Khoảng 2 giờ chiều, thủ đô đã lên cơn sốt di tản. Cộng quân đang pháo kích vào phi trường Tân sơn Nhất, giao tranh dữ dội giữa các đơn vị Biệt Cách Dù và Nhảy Dù với lực lượng Cộng quân tại vòng đai phi trường. Các hạm trưởng được lệnh lên họp khẩn. Ngoài cổng Hải Quân Công Xưởng, từng đoàn người đủ mọi thành phần quân cán chính và thân nhân đang ùn ùn kéo đến, cổng được mở ra cho họ tràn vào đổ xô về các cầu tàu có các chiến hạm đang cặp bến. Riêng cầu tàu đi sang Ty Quân Cảng và cư xá Cửu Long vẫn khóa chặt gây nên cảnh hỗn loạn tắc nghẽn vì quá đông người không qua cầu được.

Khoảng 4 giờ chiều, hạm trưởng đi họp về với nét mặt đầy căng thẳng, sau đó lên một xe Jeep cùng với vài nhân viên về đón gia đình. Thủy thủ đoàn đa số vẫn hiện diện trên tàu, lo âu nhưng bất lực vì không thể đón thân nhân xuống tàu trong lúc hỗn loạn được. Trong khi ấy tại cầu L, quân nhân và đồng bào đang tràn lên HQ.502. Lúc đó nước thủy triều dâng cao, hạm kiều bắc từ boong tàu dẫn xuống cầu thật dốc, đàn bà và trẻ em phải khó khăn lắm mới bước lên chiến hạm. Tiếng người chen lấn xô đẩy nhau, tiếng gọi ơi ới hoảng hốt vang lên khi chen lấn trèo lên tàu trong buổi hoàng hôn trốn chạy Cộng sản trông thật buồn thê thiết.

Khi màn đêm xuống, cầu tàu và 5 chiến hạm chìm ngập trong bóng tối hãi hùng vì tàu đã tháo dây điện bờ. HQ.502 đã đầy ắp người và vẫn còn nhiều người tiếp tục trèo lên. Riêng HQ.501 vì máy tàu đã bất khiển dụng và hạm trưởng là HQ Trung Tá Võ Duy Kỷ đã vắng mặt từ hơn một tuần lễ trước nên không nhận người di tản. Hạm Trưởng Kỷ sau đó đã đi tù cải tạo nhiều năm, cuối cùng được sang định cư tại San Scaramento.

Còn HQ.503 không thể ra đi, vả lại chiến hạm đã bị hư hại nặng vì bị pháo tại Phan Rang trước đây. Đặc biệt HQ.504 máy móc còn rất tốt hạm trưởng và cơ khí trưởng nhất quyết không chịu ra đi, gây phẫn nộ cho thủy thủ đoàn. Cuối cùng ai muốn ra đi phải quá giang các chiến ham khác. Hạm Trưởng HQ.504 Hải Quân Trung Tá Nguyễn Như Phú (khóa 16 Võ Bị) sau nhiều năm bị tù cải tạo, hiện nay đang sinh sống tại California.

Chiến hạm tôi nhờ nằm phiá ngoài cùng, lại nhờ HQ.504 cản bước nên những người di tản không thể tràn qua tàu tôi được. Riêng có HQ Thiếu Úy Vũ Tiến Hưng (Khóa 25 SQHQ/Nha trang) may mắn tìm gặp thân nhân trong đám người di tản nên hướng dẫn đem xuống tàu tôi. Một số nhân viên và vài sĩ quan khác đã rời tàu tìm cách về nhà để lo liệu gia đình như Hạm Phó Trần Đức Huân, HQ Đại úy Vũ Đức Thiệu, HQ Trung Úy Huỳnh Thiện Khiêm... (Những sĩ quan này đều không thể đưa gia đình xuốmg tàu kịp trong cơn hỗn loạn nên bị kẹt lại). Hầu hết anh em còn lại trên chiến hạm đều kẹt gia đình nên mặt ai nấy nặng trĩu buồn lo. Hạm trưởng đến giờ này vẫn chưa về tàu được, trong khi hạm đội gọi máy thúc hối chiến hạm phải rời bến ngay kẻo trễ.


Khoảng 9 giờ rưỡi tối, hạm trưởng về đến chiến hạm bằng một tiểu đĩnh LCVP mượn bên Ty Quân Cảng cùng với gia quyến vì cổng gác cư xá Cửu Long vẫn khóa chặt. Sau đó, hạm trưởng cho lệnh tập họp thủy thủ đoàn cho biết chiến hạm phải rời bến ngay trong đêm, anh em được chọn lựa ngay bây giờ: ĐI hay Ở LẠI?

Cuối cùng thủy thủ đoàn có khoảng 80 người thì một nửa theo hạm trưởng ra đi trốn chạy Cộng sản, bỏ lại gia đình, họ hàng thân thuộc để một thân một mình sống kiếp tha hương lưu lạc nơi xứ người. Trong số chiến hữu này, có HQ Trung Úy Phạm Công Nhạc vì vừa mới cưới vợ nhà ở Cái Sắn, nên ngập ngừng mãi không biết tính sao, cuối cùng đành phải theo tàu ra đi.Sang đến đảo Guam, sống cuộc đời tha hương buồn thảm gần 6 tháng, anh đã quyết định theo con tàu Việt Nam Thương Tín trở về quê hương, để rồi bị Cộng sản cho đi cải tạo, đọa đầy trong tủi nhục.



Hạm Trưởng HQ.11 và nhân viên chụp trên đài chỉ huy trước khi bàn giao cho Hải Quân Hoa Kỳ.
Vị sĩ quan cao nhất trong hình là HQ Trung Úy Phạm Công Nhạc.

 
Còn một nửa anh em khác chấp nhận sống chết với quê hương, tuy biết rằng sống chung với Cộng sản sẽ gặp nhiều khốn khổ nhưng mấy ai hiểu nhiều về con người Cộng sản ra sao?! Để rồi sau đó ngỡ ngàng khi bị Cộng sản cho đi cải tạo nơi rừng sâu núi thẳm. Trong số này có hạm phó của tôi, bị đưa đi tận miền Bắc xa xôi, để lại người vợ hiền phải tảo tần xuôi ngược nuôi nấng hai đứa con thơ và dành dụm thăm nuôi chồng trong lao tù CS. Sau này anh đã vượt biên cùng với gia đình định cư tại Úc năm 1984. Nhưng chỉ ba năm sau anh chẳng may mắc bệnh nan y và qua đời tháng 7/1987.

Sau khi quyết định xong, anh em nào ở lại xuống chiếc giang đĩnh LCVP để chạy vào bờ, sĩ quan duy nhất chỉ có HQ Trung Úy Nguyễn Đắc Minh vì còn mẹ già và vị hôn thê nên không nỡ theo tàu di tản được. Thủy thủ đoàn trong cảnh kẻ ở người đi đều ngậm ngùi bịn rịn, vẫy tay chào tiễn biệt nhau, không biết bao giờ mới gặp lại. HQ.11 tách bến ra đi vào khoảng 11 giờ rưỡi đêm 29-04-1975. Có lẽ trong đời tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh con tàu thân yêu đang từ từ tách bến, giã biệt Sài Gòn để ra đi trốn chạy làn sóng đỏ, để tôi đứng lặng nhìn theo đâu có ngờ đời mình sẽ nhiều khốn khổ khi lọt vào tay bọn Cộng sản bạo tàn.


Hạm Trưởng HQ.11 Phạm Đình San bàn giao chiến hạm cho HQ Đại Úy John Pine trước khi vào Subic Bay.

Tôi lái chiếc LCVP rời chiến hạm, chúng tôi dự định lái sang bên kia bờ Thủ Thiêm để đưa các anh em lên bờ trở về với gia đình. Nhưng khi sắp cặp cầu, một số đông người trên bờ ùn ùn chạy xuống cầu, chúng tôi hoảng hốt lùi tàu lại chạy ra giữa sông và sau cùng đành cặp vào chiếc Tạm Trú Hạm ở cầu C cạnh trại Bạch Đằng 2 nghỉ đêm ở đó chờ sáng mai về nhà. Trên chiếc tàu này, tôi đã gặp nhiều chiến hữu của các đơn vị khác cùng ở lại, chúng tôi cùng thức thâu đêm tâm sự và lo lắng khi nghe tiếng đạn pháo kích nổ rền cùng chứng kiến vài chiến hạm rời bến muộn màng mà lòng buồn vời vợi.

Khoảng 9 giờ sáng 30-04-1975, bến Bạch Đằng chỉ còn một ít chiến hạm ở lại, doanh trại Hải Quân trống trơn bỏ ngõ, lác đác vài người. Chúng tôi thay quân phục, mặc vào người bộ đồ dân sự đi ra cổng. Mặc trên người quần tây, áo sơ mi trắng tôi bước ra cổng Bộ Tư Lệnh Hải Quân với dáng dấp thư sinh như thưở nào còn đi học. Nhớ lại 6 năm về trước, tôi tình nguyện gia nhập Hải Quân với lòng đầy mơ ước khi đọc hai bảng hiệu treo trước phòng tuyển mộ như mời gọi chúng tôi: “Gia nhập Hải Quân là thực hiện mộng hải hồ”, “Chúng tôi đang chờ đón các bạn trong những chuyến viễn du”. Còn hôm nay, cũng bộ đồ thư sinh ấy, tôi đã giã biệt chiến hạm, giã biệt cuộc đời lính biển để trở về mái ấm gia đình. Tôi có ngờ đâu tôi khờ khạo quá, tôi đang đứng chênh vênh trên bờ vực thẳm, đâu biết tương lai đen tối đón chờ sẽ ập xuống đầu tôi:

Ôi biển cả giờ đây ta mới biết
Mộng hải hồ giết chết một đời trai.

Đến 10.25 sáng 30-04-1975, sau khi Dương Văn Minh ra lệnh quân đội buông súng, giao nộp miền Nam cho Cộng sản từ đây. Tôi lặng lẽ đi bộ về nhà ở Ngã Tư Bảy Hiền. Tôi đã chứng kiến nhiều cảnh đổi đời dâu bể mà thấy lòng mình đau như cắt.Chân tôi bước trên con đường Lê Văn Duyệt ngổn ngang quân phục, giầy vớ, súng đạn mà các chiến hữu tôi vừa cởi bỏ, chỉ mặc trên người quần đùi, áo thung thảm não bước đi như chạy trốn. Tôi đã nhìn thấy từng toán Cộng quân với gương mặt ngơ ngáo đang tiến vào thủ đô; được dẫn đầu bởi các sư sãi mặc cà sa cầm biểu ngữ, miệng hò hét, lúc hoan hô “cách mạng thành công” xem giống như những tên thầy pháp đang múa may, quay cuồng giữa lũ âm binh, thật tởm! Tôi đã nhìn thấy nhiều đồng bào đón gió đeo băng xanh đỏ; thấy những tên nằm vùng mang súng hớn hở đón chào lũ Cộng.Tôi đã nhìn thấy nhiều chiến hữu Nhảy Dù hy sinh trong trận đánh cản bước địch quân tiến chiếm thủ đô tại khu hồ tắm Cộng Hòa và cư xá Tự Do, xác được bó gọn trong tấm poncho, bên cạnh có bà mẹ già ngồi lặng lẽ khóc con. Và còn nhiều, nhiều nữa... Tôi cúi mặt, tủi nhục bước đi, tôi chợt nhìn thấy một bảng hiệu tuyên truyền có 4 câu thơ lục bát của chính quyền quốc gia treo trên cột đèn đã bị vứt bỏ, đến nay tôi còn nhớ mãi:

Có đâu rắn đẻ ra rồng?
“Mặt Trận Giải Phóng” cũng dòng Cộng nô
Cũng loài bè lũ tam vô
Cũng phường bán nước, cũng đồ Việt gian.

VŨ NGỌC VĂN
 

5 comments:

  1. Cám ơn Tác Giả rất nhiều, đã khơi lại những nỗi buồn đáng nhớ.
    Nhìn 2 bức ảnh Hạ kỳ và Thượng kỳ, đã mấy mươi năm rồi mà tôi vẫn không ngăn được dòng lệ.
    Kính chúc Tác giả luôn dồi dào sức khỏe và an lành.

    ReplyDelete
    Replies
    1. Cám ơn đọc giả Kim Phượng. Thân chúc đọc giả và gia đình mọi sự bình an.

      Delete
  2. Tôi ở tù cũng thảm mà các anh không ở tù cũng thảm

    ReplyDelete
  3. Xin cảm ơn bài viết trên.
    Tôi có người anh là lính tử trận trên tàu HQ14 ngày 24 tháng 03 năm 1975 tên LƯU CHẢY mà các anh đã nói như trên, gia đình đã được báo tử nhưng không nhận được thi thể, gia đình không biết những người lính đã tử trận hôm đó đã được đưa về đâu an táng nếu như các anh biết được thông tin thì xin báo lại cho chúng tôi biết để tìm hài cốt. Xin chân thành cảm ơn.

    ReplyDelete